Bài 17. Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hòa

nguyen thuy hien
Xem chi tiết
Hà Như Thuỷ
17 tháng 3 2016 lúc 11:13

1.Ô nhiễm nước: 
a/Nguyên nhân: 
Nước thải CN, phun thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, 
rác thải sinh hoạt, váng dầu (khai thác,chuyên chở,đắm tàu), nước từ sông đổ ra,.... 
b/Hậu quả: 
Gây bệnh tật cho con người (ngoài da, bệnh đường ruột,ung thư..v v). 
- Tạo ra hiện tượng: 
“Thủy triều đen” 
“Thủy triều đỏ”,... 
c/ Biện pháp:Xử lí nước thải, rác thải trước khi đổ vào môi trường, không lạm dụng phân bón hóa học,thuốc trừ sâu… 
2/ Ô nhiễm không khí: 
a/ Nguyên nhân. 
- Nguồn nhân tạo:Khí thải từ công nghiệp, phương tiện giao thông, bất cẩn khi sử dụng chất phóng xạ… 
- Nguồn tự nhiên : Núi lửa phun, bão cát, cháy rừng… 
b/ Hậu quả. 
- Mưa axít.. 
- Hiệu ứng nhà kính. 
- Thủng tầng ôzôn . 
- Trái đất nóng lên. 
- Tăng các bệnh về hô hấp. 
- Băng tan nhanh đe dọa các thành phố ven biển. 
c. Biện pháp. 
Bằng sự hiểu biết cuả bản thân em hãy nêu một số giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm không khí 
- Cắt giảm lượng khí thải. 
- Kí nghị định thư Kiô tô. 

Bình luận (0)
Uzumaki Naruto
Xem chi tiết
nguyễn quốc khánh
7 tháng 9 2016 lúc 21:05

Biện pháp:

+Tạo nhiều giống vật nuôi

+Đẩy mạnh sử dụng khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp

+Coi trọng việc sản xuất  nông nghiệp sach

+......

Bình luận (0)
Erza Scarlet
Xem chi tiết
doan truc van
20 tháng 10 2016 lúc 15:30

1.biện pháp:

-giáo dục cộng đồng

-kiểm soát khí thải

-sử dụng nhiên liệu sạch

-hạn chế sự gia tăng phương tiện

Bình luận (0)
doan truc van
20 tháng 10 2016 lúc 15:34

2.

hậu quả :

-gây các bệnh ngoài da , bệnh đường ruột cho con người

-làm ô nhiễm nguồn nước ngầm

-thiếu nước sạch,v.v...

Bình luận (1)
doan truc van
20 tháng 10 2016 lúc 16:28

2,

hậu quả :

-hiện tưởng "nở hoa"của nước nhiều hải sản bị nhiễm độc tố(nếu ăn những hải sản này có thể mắc chứng liệt cơ,tiêu chảy,suy giảm trí nhớ và có thể tử vong...)

-làm giảm hàm lượng ô-xy trong nước,làm chết động vật biển.

-gây thiệt hại lớn cho hệ sinh thái khi tảo chết.

-đe dọa sức khỏe của những người sử dụng nguồn nước này.

-v.v....

 

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Thùy Linh
Xem chi tiết
Nguyễn Thanh Vân
18 tháng 11 2016 lúc 18:12

* Vẽ biểu đồ hình cột, trục tung thể hiện tấn/năm/người, trục hoành thể hiện các nước Hoa Kì và Pháp.

+ Thể hiện đúng các số liệu và địa danh đã cho.

+ Các cột phải có tỉ lệ tương ứng với số liệu đã cho.

+ Số liệu đặt bên trên từng cột, địa danh đặt bên dưới từng cột.

* Tính tổng lượng khí thải của từng nước nói trên trong năm 2000: + Hoa Kì: 20 tấn/năm/người x 281.421.000 người = 5.628.420.000 tấn.

+ Pháp: 6 tấn/năm/người x 59.330.000 người = 355.980.000 tấn

 

Bình luận (4)
Phan Thùy Dương
1 tháng 11 2017 lúc 19:30

undefined

Bình luận (0)
Nguyễn Giang
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thu Hiền
28 tháng 10 2016 lúc 19:22

Ta tính như sau:

Hoa Kì: 20*281421000=5628420000(tấn)

Pháp: 6*59330000=355980000(tấn)

Bình luận (0)
Tiểu Thư Hiền Hòa
Xem chi tiết
Phương Thảo
27 tháng 10 2016 lúc 19:39

ghi lên bn ơi

đề bài ấy

Bình luận (5)
Nguyễn Đỗ Minh Khoa
Xem chi tiết
Bình Trần Thị
31 tháng 10 2016 lúc 21:00

cả 2 bạn nhé

Bình luận (0)
Edogawa Conan
4 tháng 11 2016 lúc 9:55

Nghị định thư Kyoto là một thỏa thuận về việc cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, gắn liền với Chương trình Khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change – UNFCCC). Nghị định thư buộc các nước tham gia phải cam kết đạt được các mục tiêu về thải khí nhà kính được xác định cụ thể cho từng nước. Nghị định thư được hoàn tất và mở ký vào ngày 11/12/1997 tại Kyoto, Nhật Bản. Nghị định thư quy định trước khi có hiệu lực Nghị định thư phải được phê chuẩn bởi ít nhất 55 quốc gia và các quốc gia này phải chịu trách nhiệm ít nhất đối với 55% tổng lượng khí thải toàn cầu. Các điều kiện này đã được thỏa mãn khi Liên bang Nga phê chuẩn Nghị định thư. Vì vậy Nghị định thư chính thức bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/02/2005. Tính đến tháng 02/2009, đã có 184 quốc gia tham gia vào Nghị định thư Kyoto. Việt Nam ký Nghị định thư vào ngày 03/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002.

Nội dung chính của Nghị định thư Kyoto là đưa ra các mục tiêu mang tính bắt buộc đối với 37 nước công nghiệp trên thế giới và Liên minh Châu Âu (EU) về việc giảm lượng khí thải nhà kính. Theo đó, các nước này đến năm 2012 phải giảm lượng phát thải khí nhà kính, chủ yếu là carbon dioxide, ít nhất 5% so với mức phát thải năm 1990. Mức giảm cụ thể áp dụng cho từng quốc gia thay đổi khác nhau. Ví dụ, các nước EU là 8%, Mỹ 7%, Nhật Bản 6%, Australia 8%, trong khi New Zealand, Nga và Ucraina được duy trì mức phát thải hiện tại. Riêng một số quốc gia vốn có lượng phát thải khí nhà kính thấp được phép tăng lượng phát thải, như Na Uy được tăng 1% hay Iceland 10%.

Các nước tham gia vào Nghị định thư Kyoto phải chịu sự giám sát và quản lý bởi các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc về lượng khí thải cắt giảm. Các quốc gia được chia làm hai nhóm: nhóm các nước phát triển thuộc Phụ lục I (Annex I) của Nghị định thư, buộc phải có bản đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải; và nhóm các nước đang phát triển nằm ngoài Phụ lục I (Non-Annex I) của Nghị định thư, bao gồm đa số các nước đang phát triển và cả một số nền kinh tế lớn mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil. Những nước này ít chịu ràng buộc hơn so với các nước thuộc nhóm Annex I.

Nghị định thư Kyoto yêu cầu các quốc gia tham gia cam kết thực hiện các mục tiêu nêu trên thông qua ba cơ chế chính được đưa ra trong Hiệp định Marrakesh (Marrakesh Accord) được thông qua năm 2001, bao gồm (1) Cơ chế thị trường khí thải, hay còn gọi là thương mại khí thải; (2) Cơ chế phát triển sạch; và (3) Cơ chế đồng thực hiện.

Theo đó, thông qua cơ chế thị trường khí thải, các quốc gia có hạn ngạch phát thải dư thừa có thể bán hạn ngạch này cho những nước có lượng phát thải vượt mức cho phép. Cơ chế phát triển sạch cho phép các quốc gia phát triển tài trợ cho các dự án giúp giảm lượng phát thải tại các nước đang phát triển, qua đó các nước tài trợ sẽ được gia tăng lượng hạn ngạch phát thải ở nước mình. Đây được xem như một công cụ hiệu quả nhằm giúp các nước đang phát triển tham gia vào Nghị định thư Kyoto, giúp nâng cao năng lực công nghệ ở các quốc gia này, đồng thời giải quyết được bài toán lợi ích giữa kinh tế và môi trường tại các quốc gia phát triển. Tương tự, cơ chế đồng thực hiện cũng cho phép một quốc gia thành viên tự thực hiện một dự án ở một quốc gia thành viên khác và qua đó giành được thêm hạn ngạch phát thải ở nước mình.

Hiệp ước “Hậu Kyoto”

Ngày 28/07/2005, Mỹ tuyên bố cùng 4 nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và Australia ký kết thỏa thuận “Quan hệ đối tác châu Á – Thái Bình Dương về khí hậu và phát triển sạch”, được biết đến như một Hiệp ước “Hậu Kyoto”.

 

Tuy nhiên, Hiệp ước này được cho là nhằm thay thế Nghị định thư Kyoto, phục vụ cho những tính toán có lợi cho Mỹ trước sự phản đối của cộng đồng quốc tế về việc Mỹ không tham gia Nghị định thư Kyoto. Hiệp ước này chủ yếu nhấn mạnh việc cần tăng cường nghiên cứu để tìm ra các nguồn năng lượng sạch và chuyển giao công nghệ từ những quốc gia công nghiệp sang các nước đang phát triển. Tuy nhiên đến nay Hiệp ước “Hậu Kyoto” này vẫn chưa phát huy tác dụng.

Nghị định thư Kyoto cũng được cho là một trong những tiền đề hình thành nên khái niệm “ngoại giao khí hậu”, vốn xuất hiện trong khoảng 7 đến 8 năm trở lại đây, khi các diễn biễn phức tạp của khí hậu cùng các hệ quả của nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những quốc gia công nghiệp và các nước phát triển được cho là “thủ phạm” chính gây ra sự biến đổi khí hậu (đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản), tuy nhiên lại không phải là những nước gánh chịu hậu quả nặng nề nhất, mà lại là các quốc gia đang phát triển. Các nước phát triển dù cam kết đi đầu trong việc cắt giảm lượng khí thải nhà kính theo Nghị định thư, nhưng thực tế lại tìm nhiều cách lảng tránh vấn đề như trì hoãn phê chuẩn, thực hiện, đưa những dây chuyền công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển.

Đặc biệt, Mỹ là quốc gia công nghiệp chiếm đến 25% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới nhưng lại không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto vì cho rằng điều này sẽ gây thiệt hại đối với kinh tế Mỹ. Thay vào đó, chính phủ Mỹ năm 2001 đã cam kết sẽ thực thi kế hoạch của Tổng thống George W. Bush về tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng trong 10 năm (2002-2012), đưa nồng độ carbon trong các ngành công nghiệp Mỹ giảm 18%.

Biến đổi khí hậu hiện nay được xếp vào hàng “an ninh phi truyền thống”, được dự báo là có thể trở thành thách thức lớn nhất với hòa bình và an ninh thế giới, hơn cả chủ nghĩa khủng bố. Hậu quả của biến đổi khí hậu (các thảm họa thiên nhiên, các vấn đề môi trường…) có thể làm thay đổi nguồn phân bổ tài nguyên, dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực, an ninh năng lượng và làm bùng nổ các làn sóng di cư, gây xung đột và làm bất ổn chính trị xã hội.

Từ năm 2009, Liên Hiệp Quốc cùng các nhà lãnh đạo thế giới đã gia tăng hợp tác và bàn thảo một thỏa thuận môi trường thay thế Nghị định thư Kyoto (sẽ hết hiệu lực vào năm 2012). Tuy nhiên, trải qua không ít các vòng đàm phán liên tiếp, các nước vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận nào về vấn đề này, do còn nhiều khác biệt về lợi ích (đặc biệt là xung đột lơi ích giữa môi trường và kinh tế) giữa các quốc gia

 

Bình luận (0)
Linh Sun
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
31 tháng 10 2016 lúc 21:56

Các biện pháp chống ô nhiễm không khí:

- Không thải các khí thải công nghiệp ra ngoài môi trường.

- Trồng cây xanh quanh các nhà máy và hai bên đường để lọc khí.

 

Bình luận (2)
Nguyễn Trần Thành Đạt
31 tháng 10 2016 lúc 21:56

Các biện pháp chống ô nhiễm nguồn nước:

- Không xịt thuốc quanh nguồn nước.

- Không xả rác xuống nguồn nước,...

Bình luận (1)
nguyen khanh duy
12 tháng 11 2017 lúc 21:18

-Biện pháp chống ô nhiễm không khí:

+Hạn chế khí thải cacbon dioxit(CO2) từ các nhà máy.

+Giảm khói do xe cộ thải ra bằng cách trồng nhiều cây .

+ Sử dụng hiệu quả các thiết bị lọc bụi, khí thải ra từ các nhà máy.

+Đổi mới công nghệ.

-Biện pháp chống ô nhiễm nguồn nước;

+Hạn chế rác thải ra sông hồ

+nước thải sinh hoạt phải được xử lí trước khi thải ra sông ngòi
+các nhà máy công nghiệp phải xử lí nước thải trước khi thải ra sông ngòi
+ko làm ô nhiễm đất vì chất thải sễ ngấm vào nguồn nước ngầm
+ko thải qua nhiều co2 ra ko khí vì sẽ tạo ra mưa axit và ô nhiễm nước
+sử dụng năng lượng sạch
+tích cực bảo vệ môi trường

Bình luận (0)
Trần Mạnh Tuấn
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
2 tháng 11 2016 lúc 16:14

Bộ Tài nguyên Môi trường hôm nay công bố độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người trên đất liền và trên biển; và hiện tượng thủy triều đỏ là nguyên nhân cá chết hàng loạt ở dải ven biển miền Trung.

Thủy triều đỏ, hay còn gọi là tảo nở hoa, là hiện tượng quá nhiều tảo sinh sản với số lượng nhanh trong nước. Tảo ở cửa sông, biển, hoặc nước ngọt tích tụ thường khiến mặt nước đục hoặc chuyển màu, có thể tím, hồng, xanh hoặc đỏ.

Thủy triều đỏ nhìn chung không liên quan đến chuyển động của thủy triều, vì vậy, các nhà khoa học thường thích dùng cái tên tảo nở hoa để mô tả hiện tượng này hơn. Thủy triều đỏ cũng không nhất thiết làm chuyển màu nước, khi mức độ tảo tích tụ không quá dày đặc.

Tuy vào loại tảo, thủy triều đỏ có thể sản sinh các độc tố tự nhiên, làm suy giảm oxy và gây ra các tác hại khác. Các nhà khoa học gọi đây là "hiện tượng tảo nở hoa độc hại" (HAB). Tác hại dễ thấy nhất của HAB là động vật biển hay các loài cá, giáp xác, thân mềm và các sinh vật khác chết hàng loạt.

Thủy triều đỏ cũng có khả năng gây hại cho sức khỏe con người, nếu ăn sinh vật bị nhiễm độc tố. Karenia brevis, loại tảo thường gặp ở vịnh Mexico, khi nở hoa có thể gây dị ứng mắt và ảnh hưởng đường hô hấp như ho, hắt hơi, chảy nước mắt. Những người bị bệnh hô hấp nặng hay kéo dài, như bệnh phổi mãn tính hoặc bệnh hen suyễn, có thể bị ảnh hưởng nặng.

 

Thực tế, không phải đợt bùng phát tảo biển nở hoa nào cũng có hại. Chúng có thể có lợi vì là thức ăn cho sinh vật trong đại dương.

Theo một cuốn sách của ông Kin-chung Ho, Đại học Mở Hong Kong, sự xuất hiện của thủy triều đỏ ở một số địa điểm dường như là hoàn toàn tự nhiên, do sự chuyển động của các dòng hải lưu nhất định. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng có thể do phú dưỡng hóa nguồn nước - thải quá nhiều vào nước chất dinh dưỡng như nitrat hay phốt phát từ hoạt động nông nghiệp hay hiện tượng nước trồi - dòng nước lạnh đặc và nhiều dinh dưỡng di chuyển từ phía sâu lên bề mặt đại dương, thay thế dòng nước nóng hơn.

Yếu tố khác như bụi giàu sắt đến từ các vùng sa mạc rộng lớn như sa mạc Sahara được cho là đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra thủy triều đỏ. Một số lần thủy triều đỏ xảy ra ở Thái Bình Dương có liên quan đến biến đổi khí hậu quy mô lớn, như El Nino.

Theo Scientific American, công chúng thường cho rằng ô nhiễm môi trường là nguyên nhân dẫn đến thủy triều đỏ, vì các loại tảo HAB phát triển mạnh trên các chất dinh dưỡng chứa trong nước thải và chất gây ô nhiễm. Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ có một số đợt HAB có thể liên quan đến ô nhiễm môi trường. Liên kết rõ ràng nhất có thể là với loại tảo Pfiesteria, thường gặp trong các vùng nước bị ô nhiễm. Trang này nhấn mạnh rằng chưa có kết luận về liên quan giữa Pfiesteria và ô nhiễm môi trường, nhưng các bằng chứng có vẻ khá mạnh.

Thủy triều đỏ khiến cá chết hàng loạt ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Mexico, Canada và Trung Quốc. Khoảng 36 tấn cá chết ở Hong Kong vào cuối năm ngoái được cho là do hiện tượng này. Năm 2013, thủy triều đỏ tại bờ biển đảo Borneo, phần do Malaysia kiểm soát (đảo chia làm ba phần thuộc chủ quyền của ba nước Brunei, Indonesia và Malaysia), làm hai người thiệt mạng, sau khi họ ăn sinh vật biển bị nhiễm độc.

Bình luận (0)
Lê Kỳ Hân
2 tháng 11 2016 lúc 19:54

Thủy triều đỏ ko phải là màu nước mà là màu của các con tảo ở sông, ao , hồ,... khi chất thải từ các nhà máy thải ra sông, ao, hồ,... thì các con tảo sẽ sinh sản nhanh tới mức sông, ao, hồ,... thành màu đỏ.

Bình luận (0)
Huyền Anh Kute
Xem chi tiết
Lê Kỳ Hân
2 tháng 11 2016 lúc 19:43

-Khói bụi các nhà máy

-Khí thải của xe cộ

-Sử dụng nguyên liệu năng lượng nguyên tử làm rò rỉ

- Nước thải từ các nhà máy

- Tai nạn của tàu chở dầu

Bn điền theo ô trống nhé! Mk xếp theo thứ tự ô trống đấy

 

Bình luận (3)
Đinh Mai Yến Nhi
24 tháng 12 2016 lúc 22:57

khói bụi từ các nhà máy, phương tiện giao thông

Do bất cẩn khi sử dụng năng lượng nguyên tử, rò rỉ các chất khoáng sản

Do việc đốt rừng,sử dụng than để đốt làm bụi phát tán rộng

Do tai nạn chở dầu,giàn khoan, việc rửa sàn dầu,..

Do váng dầu, chất độc hại,chất thải sinh học bị đưa ra biển

( THEO THỨ TỰ)

Bình luận (0)
phon nguyen
2 tháng 11 2017 lúc 9:12

- Ô nhiễm không khí

+ Khói bụi của hoạt động công nghiệp

+ Phương tiện giao thông

+ Chất đốt sinh hoạt

- Ô nhiễm nước

+ Nước thải công nghiệp, tàu bè sinh hoạt

+ Sự cố tàu chở dầu

+ Dư lượng phân hóa học và thuốc trừ sâu

Bình luận (0)