Bài 6. Văn hóa cổ đại

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Huy Đinh Vũ Đạt
Xem chi tiết
Việt Khánh Đỗ
1 tháng 10 2017 lúc 14:42

? bạn ghi rõ hơn dc k

Huyền Anh Kute
Xem chi tiết
Bùi Hải Phong
21 tháng 3 2017 lúc 16:23

Thiên văn ,hệ chữ cái abc,số pi,các tác phẩm văn học nghệ thuật,các kì quan thế giới,lịch âm dương

Tất cả đều quan trọng

Thanh Do Nguyen
3 tháng 1 2019 lúc 10:45

- Lịch:biết làm và sử dụng lịch dương.

- Chữ viết:sáng tạo ra chữ cái a, b, c [chữ la tinh]

- Các ngành khoa học:số học, hình học, thiên văn học,...rất phát triển.

Đoàn Diệu Linh
29 tháng 5 2019 lúc 16:01

Lịch- dc phát minh bởi người Ai Cập & dc chỉnh sửa thành lịch dương bởi người Roma. Kịch- dc phát minh bởi người Hy Lạp.Đấu trường Coloseum ở Roma ( hay Cô li dê) dc xây dựng bởi hoàng đế Vespasian & hoàn thành dưới thời hoàng đế Titus, kim tự tháp lăng mộ của các pharaoh thời cổ và trung vương quốc ở Ai Cập, đền Parthenon ( pác tê nông) ở Hy Lạp, đền Abu Simbel ở Ai Cập dc xây dọc theo bờ Tây sông Nile & dc UNESCO cứu thoát khỏi lũ lụt, tượng thư lại ngồi xếp bằng của Ai Cập, thung lũng vua - lăng mộ của các Pharaoh Ai Cập thời Tân Vương Quốc, lăng mộ Tutankhamun,... thôi, cứ làm sao nó bám sát chương trình là dc còn mk tìm hiểu sâu 1 chút trong sách vở í mà

Nguyễn Long Nhật
Xem chi tiết
Giang
5 tháng 10 2017 lúc 16:47

Trả lời:

Người Hi Lạp và Rô-ma đã biết làm lịch dựa theo sự di chuyển của Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời. Họ tính được một năm có 365 ngày 6 giờ, chia thành 12 tháng. Đó là Dương lịch.
Người Hi Lạp và Rô-ma đã sáng tạo ra hệ chữ cái a,b,c, ban đầu gồm 20 chữ, sau là 26 chữ mà ngày nay chúng ta vẫn đang dùng.
Những hiểu biết của người Hi Lạp và Rô-ma cũng đạt tới một trình độ khá cao trong nhiều lĩnh vực khoa học như số học, hình học, thiên văn, vật lí, triết học, sử học, địa lí v.v... Trong mỗi lĩnh vực đều có những nhà khoa học nổi danh, như Ta-lét, Pi-ta-go, ơ-cơ-lít trong toán học, Ác-si-mét trong vật lí học, Pla-tôn, A-ri-xtốt trong triết học, Hê-rô-đốt, Tu-xi-đít trong sử học, Stơ-ra-bôn trong địa lí v.v... Họ là những người đặt nền móng cho nhiều ngành khoa học sau này.
Nền văn học Hi Lạp được cả thế giới biết đến với những bộ sử thi nổi tiếng I-li-at, Ô-đi-xê của Hô-me, những vở kịch thơ độc đáo Ô-re-xti của Et-sin, ơ-đíp làm vua của Xô-phô-clơ v.v...
Trên đất nước Hi Lạp và Rô-ma ngày nay còn bảo tồn nhiều di tích kiến trúc và điêu khắc của thời cổ đại, như đền Pác-tê-nông trên đồi A-crô-pôn ở A-ten, đấu trường Cô-li-dê ở Rô-ma, tượng lực sĩ ném đĩa, tượng thần Vệ nữ ở Mi-lô... Đó là những kiệt tác khiến người đời sau vô cùng thán phục. 

Chúc bạn học tốt!

Bánh Bao
Xem chi tiết
Bình Trần Thị
16 tháng 10 2016 lúc 10:18
1. Chữ viếtNhững thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao, một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế kỉ VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27 chữ 9sau này rút lại còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và được coi là thứ chữ đẹp nhất thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và tiện dụng.So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái Hi Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái người ta có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng nhất bằng cách ghép chữ dựa theo âm tiết. Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm:Chữ Hoa:ΑΒΓΔΕΖΗΘΙΚΛΜΝΞΟΠΡΣΤΥΦΧΨΩ.Chữ Thường:αβγδεζηθικλμνξοπρσ (ς), τυφχψω.Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời Phục hưng trở đi. Tiếng Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp cổ đại nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống nhau. Trên thế giới có khoảng 12 triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia có người Hy Lạp sinh sống).Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN nhưng đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh.Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.Có  thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.2. Văn họcVăn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ, kịch. Theo tiếng Hi Lạp thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những câu chuyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kì ảo gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng, dũng sĩ Hi Lạp...Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các vị thần. Hệ thống các vị thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú, được miêu tả rất gần với cuộc sống đời thường của con người, khác với các vị thần của phương Đông. Sau này người La Mã đã tiếp thu các vị thần của Hi Lạp và cải biên đi thành các vị thần của mình:-   Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus-   Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp-   Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp…Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng sau cái vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề nhân văn và nhân sinh rất con người được thể hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay vô số chủ đề thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ những vị thần của Hi Lạp. Những giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có thể được bắt nguồn từ đây.Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác của Hi Lạp: thơ, kịch, kiến trúc, điêu khắc…Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả về lịch sử lẫn văn học, để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày nay: gót chân Asin, con ngựa thành Troy…Hai bộ sử thi này cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch nổi tiếng: Etsin, Sôpôclơ…Đây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương đại. Sau này chính Shakespear là người đã kế thừa truyền thống và tinh hoa của kịch Hi Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại và quy mô: nhà hát Athens.Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như tráng sĩ Agamemnong trở thành nhân vật trong vở Orextex của Etsin.Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp và La Mã, văn học Tây Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học thế giới.Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì phục hưng. Ngoài ra còn có Pêtêraca, Bôcaixô…đây đều là những tác giả say mê nghiên cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định từ nền văn học của Hi Lạp và La Mã. Về tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất của văn học Phục hưng Pháp  với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăngchuya và người con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương. Đặc biệt trong nền văn học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh là nhà văn Xecvantec với tác phẩm Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh chân thực, rõ ràng về xã hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI, đồng thời cũng là tác phẩm châm biếm toàn bộ xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm không cần phải nói gì nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và tác phẩm, đủ cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại của không chỉ của nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và Juliet, Hămlet, Macbeth, vua Lear…Những tác phẩm của ông vừa mang tính chất bi kịch vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống huy hoàng, mạnh mẽ. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã được cả thế giới công nhận “Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà ông thuộc về mọi thời đại”, các tác phẩm của ông cho đến ngày nay vẫn đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu kịch châu Âu và thế giới. Tài năng của Shakespears được K. Marx và F. Engels nhắc nhiều trong các tác phẩm của mình.Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy một số tác phẩm của Shakespear3. Nghệ thuậtTrong số những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp và La Mã thời kì cổ trung đại đối với thế giới, người ta đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của những thành tựu về nghệ thuật, bao gồm 3 lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Văn minh Hi-La được xem là nền tảng, là cơ sở của văn minh Tây Âu – châu Âu cận hiện đại, có thể nói nếu không có những thành tựu của văn minh Hi-La thì không thể có văn minh Tây Âu  trung đại và châu Âu ngày nay. Trên nền tảng của nghệ thuật Hi-La, nghệ thuật Phục hưng đã kế thừa và phát triển một cách rực rỡ, để lại những giá trị và thành tựu đặc sắc, đưa nghệ thuật Tây Âu mang tầm giá trị thời đại.3.1 Kiến trúcMặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwời Hi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt tác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phidias.Tọa lạc trên đỉnh đồi Acropolis, từ đây người ta có thể quan sát toàn bộ khu vực Athens. Đền Parthernon dài 70 m, rộng 314 m, cao 14 m được xây dựng để thờ nữ thần Athena, vị thần bảo hộ của Athens. Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn được chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth.        Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.*Ngôi đền Delphi, sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hi Lạp và vùng tiểu Á được xây dựng vào thế kỉ V TCN để thờ thần Apolo – thần mặt trời (nay thuộc thành phố Ephesus – Thổ Nhĩ Kì).Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chất riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đường nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơn điệu, nặng nề nhưng vững chắc.Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi 524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoại cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với các thư viện và phòng đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòng trưng bày nghệ thuật…Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại sau  hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138) sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.Đặc điểm nổi bật của kiến trúc La Mã chính là kĩ thuật vòm cuốn, có thể thấy được qua những công trình kiến trúc tiêu biểu.Đấu trường Colosseum của La Mã và đền Parthenon của Hi Lạp là 2 trong số 7 kì quan của thế giới cổ đại.èNhững thành tựu của kiến trúc Hi-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng dụng cho những công trình kiến trúc hiện đại.Kiến trúc thời Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa, nổi bật lên với 2 phong cách kiến trúc tiêu biểu là kiến trúc Gôtich và Roman. Cả hai phong cách kiến trúc này đều là sự kế thừa và phát triển từ nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp và La Mã cổ đại. Nghệ thuật  kiến trúc thời Phục hưng thể hiện sự giàu có, lộng lẫy cao sang quý phái.Những thánh đường Kitô giáo có kiến trúc chủ yếu mang phong cách Roman, Gô tích và Cổ điển Hy Lạp-La Mã. Khi đạo Kitô phát triển mạnh mẽ, những phong cách kiến trúc này đã được mang đến khắp nơi trên thế giới.è Tóm lại, kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc thời cổ trung đại của Hi-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan rộng toàn thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra phong cách kiến trúc châu Âu ở rất nhiều công trình kiến trúc lớn, nhỏ ở rất hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay.3.2 Hội họa và điêu khắcCùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không hai trong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitele và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite (thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại, chưa có nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình độ nghệ thuật của người Hi Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus ở Olympia, một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hi Lạp là Phidias.Ngoài ra, tượng nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là những tác phẩm tuyệt vời thể hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại.Về hội họa người Hi Lạp cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm hiện nay không còn được lưu giữ. Theo nghiên cứu, những họa sĩ Hi Lạp là người đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ xa gần của các nhân vật trong tranh. Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người La Mã phỏng theo họa mà ra.Đỉnh cao của hội họa phương Tây chính là hội họa thời Phục hưng. Bước sang thế kỉ XVI, nghệ thuật Phục hưng phát triển đến đỉnh cao với các tên tuổi của Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael…Đặc điểm nổi bật của hội họa thời Phục hưng chính là sự biểu hiện tinh tế đời sống nội tâm, chiều sâu cá tính của nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhiều tác phẩm nổi tiếng của các họa sĩ thời kì này.Leonardo da Vinci (1452-1519) là một thiên tài của nước Ý trên lĩnh vực nghệ thuật. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng La Joconde , Đức mẹ đồng trinh trong hang đá… Ông nghiên cứu rất kĩ và sâu sắc về tâm lý, giải phẩu; xác định cá quy luật phối cảnh, ánh sáng… Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.Michelangelo (1475-1564) cũng là một người Ý, sống cùng thời với Leonardo da Vinci. Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Ông là người đã đưa điêu khắc Phục hưng đến tuyệt đỉnh. Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của ông là bức tượng David. Tượng được tạc trên đá cẩm thạch cao 5.3m, thể hiện một chàng thanh niên đang độ đôi mươi với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng David, Michelangelo thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ. Ông là kiến trúc sư đầu tiên thiết kế thánh đường Xanh Pie (nhà thờ thánh Peter ở La Mã), sau khi ông mất nhiều chi tiết đã bị thay đổi nhưng nguyên mẫu vẫn là thiết kế của ông. Về hội họa ông cũng đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Sáng tạo thế giới, Cuộc phán xét cuối cùng…Trong đó  tác phẩm lớn nhất là bức họa Sáng tạo thế giới với 343 nhân vật được ông vẽ trong 4 suốt 4 năm. Tác phẩm này được trang trí trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican.Raphael Sanzio (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài người Ý. Tác phẩm của ông thường thể hiện quang cảnh vui tươi, êm dịu, cuộc sống sung túc; hình ảnh những người phụ nữ đẹp, hiền hậu; trẻ em ngây thơ… Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Người làm vườn xinh đẹp; ngoài ra còn có các bức tranh về Thánh mẫu…4. Giáo dụcTại Hi Lạp, trong giai đoạn phát triển rực rỡ của nhà nước Athens và Spart, giáo dục đã được chú trọng. Trong khi thành bang Spart chủ yếu chú trọng đến giáo dục quân sự thì Athens xây dựng một nền giáo dục theo hướng tự do dân chủ.Tại La Mã, dưới thời kì đế chế, giáo dục phát triển với những nội dung, đề tài giáo dục liên quan nhiều đến chính trị, chiến tranh, chủ yếu để đào tạo những ra những thủ lĩnh quân sự, những nhà lãnh đạo, quản lý chính quyền.Trong thời kì cổ đại, giáo dục Hi Lạp và La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người họ cần cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic…với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc. Đây là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.Đến trước thế kỉ X, giáo dục Tây Âu chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo hội và kinh thánh. Đầu thế kỉ XI, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, sự đòi hỏi của con người về tri thức ngày càng cao nhiều trường đại học đã ra đời ở nhiều nước khi giáo dục giáo hội không còn đủ điều kiện để đáp ứng. Trường đại học ra đời sớm nhất là Đại học Bôlôna ở Italia. Sang thế kỉ XII, XIII, rất nhiều trường đại học khác đã lần lượt xuất hiện: Đại học Pari, đại học Oóclêăng (Pháp); đại học Oxford, đại học Cambridge (Anh); đại học Xalamanca ở Tây Ban Nha…Đến cuối thế kỉ XIV ở châu Âu đã có tất cả hơn 40 trường đại học.Ngôn ngữ được giảng dạy ở các trường đại học là tiếng Latinh. Phương pháp học tập là nghe giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan trọng. Khi tốt nghiệp sinh viên phải làm và bảo vệ luận văn.èNhư vậy, ngay từ thời cổ đại, những con người năng động, tích cực của phương Tây đã tạo ra một nền giáo dục hết sức tiến bộ cả về phương pháp lẫn nội dung giảng dạy. Sự vượt trội về tư duy và phương pháp giáo dục ngay buổi đầu đã tạo một nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Tây Âu sau này. Những nội dung và phương pháp giáo dục thời cổ đại hầu như được tiếp nhận và áp dụng trong các thời kì sau. Điều này rất dễ lý giải cho sự tiến bộ vượt bậc và hiệu của nền giáo dục phương Tây hiện nay. Hầu hết những trường đại học thời trung đại hiện nay đều trở thành những trường đại học danh tiếng của thế giới, nơi đào tạo những con người với bộ óc tuyệt vời cho mọi quốc gia. Mọi quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hiện nay đều tiếp nhận nền giáo dục tiên tiến của phương Tây.5. Tổ chức nhà nước và luật phápKhi nói đến văn minh phương Đông người ta nhắc nhiều đến những thành tựu văn hóa thiên về lĩnh vực tinh thần còn khi nói đến văn minh phương Tây người ta hay nói đến những thành tựu văn minh thiên về giá trị vật chất cho nhân loại. Một trong số những thành tựu đó là tổ chức nhà nước và luật pháp.Trong hàng chục quốc gia thành thị của Hi Lạp thì Athens có hình thức nhà nước dân chủ điển hình nhất và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Hi Lạp cổ đại. Ra đời trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc, nhà nước dân chủ chủ nô Athens dân chủ hóa và hoàn thiện qua những cải cách: cải cách Solon, cải cách Cleisthenes. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm các cơ quan như: Đại hội nhân dân, Hội đồng nhân dân (hội đồng 500), Tòa án nhân dân, Hội đồng cấp chính (hội đồng trưởng lão )…được sửa đổi và bổ sung qua từng thời kì khác nhau nhằm tăng cường và hoàn thiện thể chế dân chủ. Đỉnh cao của thể chế nhà nước Athens là dưới thời Pericles.Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người Hi Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại.Khi nhà nước La Mã thành lập đã cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên Luật 12 bảng trên cơ sở kế thừa và tham khảo luật Solon của người Hi Lạp. Nội dung bộ luật khá rộng rãi và tiến bộ, nó chống lại sự xét xử độc đoán của quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân, đề ra những nguyên tắc về tố tụng, vấn đề thừa kế tài sản… Mặc dù còn nhiều hạn chế khi xét về bản chất vẫn là bảo hệ quyền lợi cho giai cấp quý tộc, tuy nhiên tại thời điểm đó, bộ luật là một sự tiến bộ đối với xã hội đương thời.6. Thể thaoThể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.
Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp.Thế vận hội Olympic ngày nay chính là sự bắt nguồn từ thể thao của Hi Lạp. Cũng 4 năm tổ chức một lần tại các thành phố lớn, thế vận hội Olympic đã trở thành thành sân chơi thể thao của cả thế giới với nhiều nội dung thi đấu phong phú và đa dạng. Olympic hiện nay là đỉnh cao của thể thao nhân loại. Năm 2004 Olympic được tổ chức tại Athens – Hi Lạp, lần đầu tiên được trở về với nơi mà hoạt động thể thao này đã ra đời từ thời cổ đại.6. Tôn giáoThời cổ đại, người Hy Lạp theo đa thần giáo. Về sau khi tiếp xúc với nền văn hóa Hy Lạp, người La Mã đã tiếp thu toàn bộ hệ thống thần thoại Hy Lạp và đổi tên gọi các vị thần Hy Lạp theo kiểu La Mã.Đến cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I – TCN, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Trong buổi đầu, đạo Kitô là tôn giáo của những người nghèo khổ, của những người chịu nhiều áp bức trong xã hội. đạo tuyên truyền những tư tưởng bình đẳng, bác ái của con người trước Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế độ thống trị hà khắc của chính quyền lúc bấy giờ. Đạo có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã hội và vượt ra khỏi phạm vi La Mã.Hiện nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng lan rộng hầu khắp các quốc gia.Thời kì trung đại, cùng với những cuộc cải cách tôn giáo đã cho ra đời tôn giáo mới trên cơ sở sự điều chỉnh và tách ra từ giáo hội Kitô: đạo Tin lành, Công giáo, Thiên chúa giáo...Đây đều là những tôn giáo lớn và có tầm ảnh hưởng đến thế giới.èTôn giáo phương Tây thời kì cổ trung đại qua các thời kì phát triển đã tác động nhiều mặt đến nền văn hóa-nghệ thuật thế giới: kiến trúc, hội họa, đieu khắc… và đời sống của con người. Hiện nay mức độ ảnh hưởng của các tôn giáo đã mang tầm thế giới. Sự ảnh hưởng của các tôn giáo hiện nay đối với thế giới là sự tác động đa chiều, nhiều mặt và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
Bình Trần Thị
16 tháng 10 2016 lúc 10:19

 Thời cổ đại, khi nhà nước được hình thành, loài người bước vào xã hội văn minh. Trong buổi bình minh của lịch sử, các dân tộc phương Đông đã sáng tạo nên nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ mà ngày nay chúng ta vẫn đang được thừa hưởng: 

*Sáng tạo chữ viết: 
Khi nhà nước được hình thành, do nhu cầu của việc quản lý hành chính (công văn, lưu giữ số liệu ruộng đất, thuế má…) và nhu cầu trao đổi thư từ, người ta cần ghi chép và lưu giữ nên chữ viết ra đời. Ban đầu, người phương Đông cổ đại đều dùng chữ tượng hình mô phỏng vật thật để nói lên ý nghĩ của mình. 

Người ta đã tìm thấy ở Tây Á hình vẽ một con thuyền, ba Mặt Trời và ba con hươu nằm dưới chân người. Bức vẽ muốn kể lại một cuộc đi săn bằng thuyền ở ven sông trong ba ngày và săn được ba con hươu. 

Về sau, để diễn tả linh hoạt, người ta đã dùng những nét tượng trưng thay cho hình vẽ và ghép các nét theo quy ước để thành chữ gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý cũng chưa tách khỏi chữ tượng hình và thường được ghép với một thanh để biểu thị tiếng nói có âm sắc thanh điệu của con người. 

Những chữ này được viết trên giấy làm bằng vỏ cây pa-pi-rút, trên mai rùa, trên thẻ tre hoặc trên các phiến đất sét ướt rồi đem nung hoặc phơi khô. Ở Ai Cập, người ta đã tìm được nhiều “tờ giấy” pa-pi-rút như thế, có “tờ” dài tới 40m; còn ở Lưỡng Hà, khi khai quật thành Ni-ni-vơ, người ta đã tìm được một thư viện lớn có chứa tới 22000 “cuốn sách” bằng đất nung. 

Nhờ những “ văn tự” cổ còn lưu giữ lại, ngày nay chúng ta mới biết được rằng ở các quốc gia cổ đại phương Đông, các ngành khoa học như thiên văn, toán học, y học, văn học, sử học đã phát triển. 

*Thiên Văn: 
Qua nhiều năm cày cấy, nông dân hiểu được tính chất sinh trưởng và thời vụ của cây lúa có liên quan đến quá trình “mọc” và “lặn” của Mặt Trời và Mặt Trăng. Qua quan sát, người ta thấy cứ khoảng 30 ngày đêm là một lần trăng tròn. Đó là cơ sở để người ta tính chu kỳ thời gian và mùa. Từ đó, người phương Đông đã biết làm ra lịch, mỗi năm có 365 ngày, chia thành 12 tháng. Họ còn đo thời gian bằng bóng năng Mặt Trời, mỗi ngày có 24 giờ. 

*Toán Học: 
Cư dân phương Đông cũng là những người đầu tiên sáng tạo ra các chữ số. Ban đầu người Ai Cập mới chỉ biết dùng những vạch đơn giản và những kí hiệu tượng trưng cho các số 10, 100, 1000… còn hệ thống chữ số A-rập, kể cả số 0 mà chúng ta đang dùng ngày nay, là do người Ấn Độ cổ đại sáng tạo ra. Do nhu cầu thực tế, người Ai Cập xưa rất giỏi về hình học. Họ đã tính được số Pi (π) bằng 3,16 và giải được nhiều bài toán hình học phẳng phức tạp. Người Lưỡng Hà lại phát triển hơn về số học. Họ biết làm các phép tính với số thập phân. 

*Kiến Trúc: 
Sự phát triển của toán học đã giúp cho cư dân phương Đông có thể tính toán, xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ trong lịch sử. Tiêu biểu nhất của loại công trình kiến trúc này là các Kim tự tháp ở Ai Cập. Được xây dựng từ rất sớm (vào khoảng thiên niên kỉ III trước Công nguyên), các Kim tự tháp ở Ai Cập đến nay vẫn làm cho hàng triệu du khách đến đây phải choáng ngợp bởi các hình khối hùng vĩ của nó, có tháp cao gần 150m (bằng toà nhà 50 tầng); còn các tháp hình núi nhọn, cao nhiều tầng ở Ấn Độ lại làm cho người ta phải kinh ngạc bởi nghệ thuật chạm trổ tỉ mỉ trên các bức phù điêu, tạo nên một phong cách nghệ thuật kiến trúc Hinđu độc đáo. 
*Văn học: 
Sử thi, thần thoại, kịch thơ độc đáo

Nguyễn Trần Thành Đạt
16 tháng 10 2016 lúc 14:48

Những tri thức Thiên văn học và Lịch pháp học ra đời vào loại sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông. Nó gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Để cày cấy đúng thời vụ, những người nông dân luôn phải “trông trời, trông đất”. Dần dần, họ biết đến sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Đó là những tri thức đầu tiên về thiên văn. Từ tri thức đó, người phương Đông sáng tạo ra lịch. Vì vậy, lịch của họ là nông lịch, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.

Đây cũng là cơ sở để người ta tính chu kì thời gian và mùa. Thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày. Năm lại có mùa ; mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi. Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ.

Thiên văn học sơ khai và lịch đã ra đời như thế.

b)   Chữ viết

Sự phát triển của đời sống làm cho quan hệ của xã hội loài người trở nên phong phú và đa dạng ; người ta cần ghi chép và lưu giữ những gì đã diễn ra. Chữ viết ra đời bắt nguồn từ nhu cầu đó. Chữ viết là một phát minh lớn của loài người.

Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà.

Lúc đầu, chữ viết chỉ là hình vẽ những gì mà họ muốn nói, sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Chữ viết theo cách đó gọi là chữ tượng hình. Người Trung Hoa xưa vẽ  để chỉ ruộng, vẽ để chỉ cây và vẽ để chỉ rừng.

Người Ai Cập xưa vẽ để chỉ nhà, vẽ chỉ móm, vẽ để chỉ Mặt Trời...

Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.

Nguyên liệu được dùng để viết của người Ai Cập là giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.

c)   Toán học

Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng, nên Toán học xuất hiện rất sớm ở phương Đông.

Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản. Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi (71) bằng 3,16 ; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v... Còn người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu. Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên.

Những hiểu biết về toán học của người xưa đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.

d)   Kiến trúc

Trong nền văn minh cổ đại phương Đông, nghệ thuật kiến trúc phát triển rất phong phú.

Nhiều di tích kiến trúc cách đây hàng nghìn năm vẫn còn lưu lại như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà ...

Những công trình cổ xưa này là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người.



 

Huyền Anh Kute
Xem chi tiết
Nya arigatou~
9 tháng 11 2016 lúc 21:37

Thành tựu văn hóa cổ đại phương Đông :

- Sáng tạo ra âm lịch

- Sáng tạo ra chữ viết, chữ số.

Phương Tây :

Sáng tạo ra dương lịch

- Hệ chữ cái a, b, c.

- Đóng góp 1 số về thiên văn,toán học, triết học, văn học , .....

- Có những công trình kiến trúc cổ nổi tiếng.

Vì mik học lớp 7 rùi nên kiến thức khá nhiều nên mik chỉ nhớ từng này thôi nhé haha

Học tốt nhé Huyền Anh Kute và tick cho mik nhaok

 

 

Nguyễn Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Tâm Như
8 tháng 5 2016 lúc 21:29

Các thành tựu văn hóa cổ đại: Thiên văn, lịch, chữ viết, chữ số, kiến thức của các ngành khoa học cơ bản, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các thành tựu kiến trúc,...

 

Mi Anh Trần
19 tháng 9 2016 lúc 16:42

Các thành tựu văn hoá cổ đại : Thiên văn ; lịch âm,lịch dương ; chữ a,b,c ; chữ tượng hình ; đồng hồ đo thời gian ; số đếm ; các kiến thức của các nghành khoa học : vật lí , toán học ,sử học , địa lí ,v.v ; tác phẩm văn học , nghệ thuật và các công trình kiến trúc nổi tiếng

 

Mônika Mẫn
21 tháng 9 2016 lúc 13:03

Các thành tựu văn hóa cổ đại : Thiên văn,lịch,chữ viết,chữ số, kiến thức của các ngành khoa học cơ bản, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các thành tựu kiến trúc,...

duong the tai
Xem chi tiết
Đặng Quỳnh Ngân
21 tháng 9 2016 lúc 18:12

Các kim tự tháp chứa đựng rất nhiều điều bí ẩn mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể khám phá hết.

Hầu hết chúng ta đều biết kim tự tháp là những kiến trúc vĩ đại của người Ai Cập cổ đại. Các kim tự tháp này cũng là nơi chôn cất của các vị vua Pharaon, chứa đựng rất nhiều điều bí ẩn mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể khám phá hết.

1. Ba kim tự tháp tại khu lăng mộ Giza hay còn gọi là Giza Necropolis, là các kim tự tháp Ai Cập được biết đến nhiều nhất. Tuy nhiên trên thực tế có tới 140 kim tự tháp đã được phát hiện tại khu vực này.

2. Kim tự tháp lâu đời nhất được biết đến là kim tự tháp Djoser, được xây dựng vào khoảng thể kỷ 27 trước Công nguyên.

3. Kim tự tháp lớn nhất trên thế giới là kim tự tháp Khufu, hay còn được gọi là Đại kim tự tháp Giza. Với chiều cao ban đầu lên tới 146,5m và chiều cao hiện tại là 138,m.

4. Kim tự tháp Giza là kiến trúc nhân tạo cao nhất thế giới trong vòng 3871 năm, cho đến khi nhà thờ Lincoln tại Anh được xây vào năm 1311 chiếm mất vị trí này.

5. Đại kim tự tháp Giza là kiến trúc lâu đời nhất của 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Cũng là kỳ quan cổ đại cuối cùng còn xót lại trên thế giới.

25 sự thật bất ngờ về các kim tự tháp Ai Cập

6. Có nhiều ghi chép khác nhau về số lượng lao động tham gia xây dựng các kim tự tháp tại Ai Cập. Theo ước tính của các nhà khoa học thì để xây 1 kim tự tháp Giza cần khoảng 100.000 người.

7. Bên cạnh kim tự tháp Giza là tượng nhân sư lớn nhất thế giới, đây cũng là bức tượng nguyên khối lớn nhất thế giới cho đến nay. Khuôn mặt của tượng nhân sư được cho là điêu khắc theo khuôn mặt của Pharaon Khafra.

8. Tất cả các kim tự tháp được xây dựng tại bờ phía Tây của song Nile, hướng về phía Mặt Trời lặn và là biểu tượng vùng đất của những người chết trong Ai Cập cổ đại.

9. Bên trong kim tự tháp là các hầm mộ chôn cất những vị vua và những người giàu có nhất Ai Cập cổ đại. Họ được chôn cùng với những đồ vật dụng hàng ngày bằng vàng, người Ai Cập tin rằng họ có thể sử dụng chúng trong thế giới bên kia.

10. Kiến trúc sư xây kim tự tháp được biết đến đầu tiên là Imhotep, một kỹ sư, bác sĩ và nhà khoa học nổi tiếng của Ai Cập cổ đại. Ông được cho là đã thiết kế kim tự tháp đầu tiên của thế giới, kim tự tháp Djoser.

25 sự thật bất ngờ về các kim tự tháp Ai Cập

11. Các nhà khoa học đồng ý rằng những kim tự tháp được xây bằng những khối đá lớn, được điêu khắc thành khối vuông với kích thước giống nhau. Tuy nhiên cách thức di chuyển và đặt những viên đá khổng lồ này vẫn còn là điều bí ẩn.

12. Cách thức xây kim tự tháp thay đổi theo từng thời kỳ, cùng với sự phát triển của khoa học. Các nhà chuyên môn phát hiện ra rằng những kim tự tháp sau này được xây theo cách hoàn toàn khác những kim tự tháp lâu đời nhất trước đó.

13. Sau khi các kim tự tháp được xây dựng tại Ai Cập cổ đại, đã có rất nhiều kiến trúc kim tự tháp khác được xây dựng trên toàn thế giới, trong đó có các kim tự tháp tại Sudan.

14. Kim tự tháp Giza đã từng bị phá hủy bởi Al-Aziz, tuy nhiên do kiến trúc của những tảng đá khổng lồ quá kiên cố nên việc phá hủy đã không thành công. Tuy nhiên Al-Aziz đã từng phá hủy thành công kim tự tháp Menkaure.

15. Ba kim tự tháp Giza được xây đúng vị chí của ba ngôi sao lớn nhất trong chòm sao Orion. Trong Ai Cập cổ đại, chòm sao Orion tượng trưng cho vị thần của sự tái sinh.

25 sự thật bất ngờ về các kim tự tháp Ai Cập

16. Đại kim tự tháp Giza được xây bởi 2.300.000 khối đá. Mỗi khối đá có trọng lượng trên 50 tấn.

17. Các viên đá xây kim tự tháp ban đầu được phủ lớp đá vôi trắng bên ngoài. Khi ánh Mặt Trời chiếu vào, những viên đá phản chiếu ánh sáng khiến kim tự tháp tỏa sáng như một viên ngọc quý.

18. Khi phản chiếu ánh sáng, các kim tự tháp này có thể được nhìn thấy từ Mặt trăng.

19. Mặc dù lượng nhiệt bên ngoài các kim tự tháp là rất lớn, do đây là vùng sa mạc nóng quanh năm. Nhưng nhiệt độ bên trong của kim tự tháp luôn ổn định ở 20 độ C.

20. Rất khó để tính chính xác, tuy nhiên khối lượng của kim tự tháp Cheops là khoảng 6 triệu tấn.

21. Kim tự tháp Cheops được xây hướng mặt về phía Bắc. Tuy nhiên do cực Bắc thay đổi theo thời gian, do đó hướng của kim tự tháp này bị lệch so với phương Bắc. Từ đó các nhà khoa học có thể tính toán chính xác cực Bắc của chúng ta đã di chuyển bao nhiêu.

25 sự thật bất ngờ về các kim tự tháp Ai Cập

22. Một trong những lý do khiến kim tự tháp tồn tại lâu như vậy là do loại vữa sử dụng để gắn kết các khối đá. Đây là một loại vữa đặc biệt mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết được công thức của nó.

23. Trái với nhiều câu chuyện kể lại, các kim tự tháp được xây dựng bởi nô lệ và tù nhân. Tren thực tế rất có thể những người xây dựng kim tự tháp này là những người thợ tay nghề cao và được trả lương.

24. Mặc dù người Ai Cập cổ đại thường khắc những ký hiệu hoặc chữ tượng hình trên các kiến trúc của mình. Tuy nhiên cho đến nay chúng ta vẫn chưa tìm thấy bất kỳ ký hiệu hay chữ tượng hình nào bên trong kim tự tháp Giza.

25. Một kim tự tháp trung bình mất khoảng 200 năm để có thể hoàn thành, có nghĩa là phải mất 2 đến 3 đời Pharaoh mới hoàn thành một kim tự tháp. Tuy nhiên trong cùng một thời điểm có nhiều kim tự tháp được xây dựng cùng lúc.

Mônika Mẫn
21 tháng 9 2016 lúc 13:09

những bí mật kim tự tháp ai cập là: chôn lăng mộ những người đã chết

Ngọc Nguyễn Hoài
16 tháng 11 2017 lúc 20:34

Nhiều thế kỷ qua, người đời sau vẫn chưa giải thích được một trong những bí ẩn lớn nhất của thế giới: Làm sao một xã hội vào thời đồ đồng (cụ thể vào khoảng năm 2600 trước Công nguyên) lại có thể tạo ra Đại kim tự tháp Giza, một trong những công trình cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số 7 kỳ quan thế giới cổ đại?

Với chiều cao nguyên thủy là 149,6 m, Đại kim tự tháp Giza, hay còn gọi là kim tự tháp Kheops, cho đến thời Trung cổ vẫn là cấu trúc nhân tạo lớn nhất trên trái đất, trước khi nhường ngôi cho Vương cung thánh đường Lincoln ở Anh vào thế kỷ 14. Trong khi một số nhà chuyên về giả thuyết âm mưu không ngần ngại suy đoán rằng công trình này chỉ có thể thực hiện được với sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh, giới khoa học và khảo cổ học vẫn tìm kiếm những chứng cứ khả dĩ có thể giải thích được sự tồn tại của kim tự tháp. Giờ đây, sau nhiều năm kiên trì, công sức của họ đã được tưởng thưởng. Theo phóng sự Egypt’s Great Pyramid: The New Evidence trên kênh truyền hình 4 của Anh, các nhà khảo cổ học đã tìm được chứng cứ vô cùng hay ho cho thấy phương pháp vận chuyển những khối đá vôi và đá granite trọng lượng 2,5 tấn/khối từ cách đó hơn 800 km để đến địa điểm xây dựng ngôi mộ cho Pharaoh Khufu. Bằng chứng nằm trong một cuộn giấy da cổ, nhật ký làm việc của một quản đốc thời xưa, ghi lại cách thức hàng ngàn công nhân lành nghề vận chuyển 170.000 tấn đá dọc theo sông Nile trên các con thuyền gỗ được kết lại bằng dây thừng, thông qua hệ thống kênh đào được thiết kế đặc biệt đến bến cảng sát bên công trình xây dựng. Được viết bởi Merer, đốc công chịu trách nhiệm một tổ gồm 40 công nhân giỏi, cuộn giấy cổ trên cho đến nay là tài liệu duy nhất được công nhận là xác thực, liên quan đến hoạt động xây kim tự tháp. Trong nhật ký, ông Merer mô tả chi tiết cách thức các khối đá được đưa từ Tura xuôi dòng đến Giza trên các con thuyền được kết lại bằng dây thừng. Nhóm của ông cũng đã tham gia vào hoạt động thay đổi hoàn toàn vùng đất trong phạm vi dự án, đắp những con đê khổng lồ chuyển đổi luồng nước từ sông Nile vào hệ thống kênh đào nhân tạo đến nơi xây kim tự tháp. Nhà khảo cổ học người Mỹ Mark Lehner, chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, cũng đã khai quật được chứng cứ về sự hiện diện của tuyến đường thủy bị chôn vùi bên dưới cao nguyên Giza. “Chúng tôi đã phác thảo được khu kênh đào trung tâm mà chúng tôi cho rằng là nơi chuyên chở đá đến chân của cao nguyên Giza”, theo chuyên gia Mỹ. Trong khi đó, một nhóm khác cũng công bố kết quả khai quật thành công một chiếc thuyền đóng vai trò phục vụ trong nghi lễ, được thiết kế để Pharaoh Khufu tiếp tục dẫn dắt thần dân sau khi chết.
Nguyễn Hạnh Nguyên
Xem chi tiết
Hiếu Alexander
9 tháng 10 2016 lúc 9:37

nhà bạn ở đâu

nếu bạn trả lời cậu  hỏi của mk mk sẽ trả lời zùm bn ok

 

Huỳnh Đăng Khoa
1 tháng 11 2017 lúc 18:53

Ở giai đoạn này, Việt Nam thuộc quyền thống trị thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa, nổi dậy đã diễn ra nhưng thất bại. Nhiều xu hướng cải cách, đổi mới được dấy lên nhưng cũng chưa đạt kết quả khả quan.[7] Trong thời gian này, có nhiều lý thuyết, nhiều chủ nghĩa, nhiều con đường và phương pháp để đấu tranh bắt đầu biết đến ở Việt Nam. Thời điểm này cũng có nhiều người Việt Nam đi ra nước ngoài theo nhiều diện khác nhau.

Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu những bài học lịch sử và khảo nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành thấy rằng mọi cách tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, sang Trung Quốc, hay Nhật Bản (phong trào Đông Du) đều không đạt kết quả khả quan. Những con đường mà các bậc sĩ phu đã đi trước đều bị kết thúc bằng những thất bại trong đau khổ, do đó ông thấy rằng cần nghiên cứu, tìm tòi một con đường khác, đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác hơn mấy hướng trên.[8]

Theo Hồ Chí Minh, ông ra đi vì muốn "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu".[7] Sau này khi trả lời phỏng vấn, Hồ Chí Minh cho bi

Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy

Việc Hồ Chí Minh chọn Sài Gòn là nơi để đi nước ngoài sau này được lý giải là do lúc bấy giờ Sài Gòn là cửa ngõ của xứ Nam Kỳ có những công ty tàu biển lớn chạy đường Pháp - Đông Dương rất thuận lợi cho việc sang Pháp. Đây cũng là nơi tự do hơn các xứ khác ở Việt Nam trong việc đi lại, tìm kiếm công ăn việc làm, dễ kiếm cơ hội xuất ngoại. Sài Gòn, nơi ông dừng chân trong thời gian ngắn nhất nhưng lại có vai trò quyết định đối với sự lựa chọn con đường cứu nước do được tiếp xúc với nhiều luồng thông tin đa dạng.[9]

Phùng Khắc Hưng
1 tháng 11 2017 lúc 19:08

vào ngày 5-6-1911 Bác Hồ đã rời tổ quốc,ra đi tìm đường cứu nước,hôm đó tại cảng nhà Rồng (sài Gòn) bác hồ đến xin việc trên một con tàu buôn tên là La-tút sơ Tờ-rê-vin trở về châu âu.Người ta giao cho bác làm phụ bếp trên tàu,một công việc rất nặng nhọc.Bác phải làm việc từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối mới xong

Dù mệt,Bác vẫn cố tự học thêm 2 giờ nữa, trong khi những người bạn khác thìđi ngủ hoặc đánh bài. Khi học, những từ nào không hiểu, Bác nhờ những thuỷ thủ người Pháp giảng lại cho. Bác còn nghĩ ra một cách học độc đáo là mỗi ngày viết mười từ tiếng Pháp vào cánh tay để vừa làm việc, vừa nhẩm học.

Thời kỳ làm việc ở Luân Đôn (thủ đô nước Anh),vào buổi sáng sớm và buổi chiều mỗi ngày, Bác lại mang sách ,bút ra vườn hoa Hay-dơ để tự học tiếng Anh.Mỗi tuần được một ngày nghỉ, Bác đến học tiếng Anh với 1 giáo sư người I-ta –li-a.Với cách tranh thủ học như vậy,đến bất kì nước nào ,Bác đều tự học tiếng nước ấy .

Sau này ,mặc dù tuổi đã cao khi đọc sách ,báo tiếng ngoài, gặp từ nào không hiểu hay một danh từ khoa học . Bác đều tra tự điển hoặc nhờ người thạo tiếng nước đó giải thích rồi ghi lại vào sổ để nhớ .

Đỗ Thị Bích Ngọc
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
16 tháng 10 2016 lúc 21:16

* Chữ viết:

- Phương Đông : chữ tượng hình

- Phương Tây : sáng tạo ra chữ a , b , c

* Công trình kiến trúc :

- Phương Đông : kim tự tháp cổ ( Ai Cập ), Vạn lý Trường Thành ( Trung Quốc ) ...

- Phương Tây : đền Pác - tê - nông, đấu trường Cô - li - dê ...

Huyền Anh Kute
Xem chi tiết
♥ Dora Tora ♥
9 tháng 11 2016 lúc 22:07

Thành tựu văn hóa của các Quốc gia cổ đại phương Đông:

_ Tri thức đầu tiên về thiên văn.

_ Sáng tạo ra Âm lịch và Dương lịch.

_ Chữ viét tượng hình. Ai CậpTrung Quốc họ đã ság tạo ra chữ viết tượng hình. Được viết trên giấy papipút, thẻ tre, mai rùa trên phiến đất sét rồi đem nung khô.

_ Toán học:

+ Người Ai Cập nghĩ ra cách đếm đến 10 và rất giỏi hình học. Họ đã tìm ra số pi = 3,16

+ Người Ấn Độ tìm ra số 0

+ Người Lưỡng Hà giỏi số học để tính toán.

_ Kiến trúc: Có nhiều công trình nổi tiếng: Kim tự tháp, Vạn Lý Trường Thànhm thành Ba-bi-lon.

 

Nguyễn Trần Thành Đạt
9 tháng 11 2016 lúc 23:13
I. Tổng quan về phương Tây cổ - trung đại.1. Cơ sở hình thành nền văn minh phương Tây cổ đạiThuật ngữ phương Tây đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử. Vào thời cổ đại, khi con người còn chưa tìm ra những lục địa mới người Hy Lạp đã gọi khu vực mặt trời lặn so với họ là phương Tây, các vùng đất còn lại (Châu Á, châu Phi) gọi là phương Đông. Sự phân loại này mang tính chất tương đối và chỉ là sự quy ước của con người mà thôi. Văn minh phương Tây cổ đại ngày nay được hiểu chính là hai nền văn minh lớn : Hi Lạp và La Mã cổ đại.1.1 Hi Lạp.*Điều kiện tự nhiên:Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp.Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù phú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình bàn tay bốn ngón xòe ra Địa Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang đầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta.Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không phì nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thực chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập.Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợi tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để giao thương.Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.*Các thời kì phát triển:- Văn minh Crete – Mycenae (thiên niên kỉ III – thế kỉ XII TCN)- Thời kì Homer (thế kỉ XI – IX TCN)- Thời kì xã hội có giai cấp, nhà nước : các quốc gia thành bang Sparta và Athens (thế kỉ VII – IV TCN)- Thời kì Macedonia và thời kì Hi Lạp hóa (337 – 30TCN)1.2 La Mã* Điều kiện tự nhiên:Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông Nam.Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sông Pô (miền Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.* Các thời kì phát triển:Thời kì Vương chính (753 – 510 TCN)Thời kì Cộng hòa (thế kỉ VI – I TCN)Thời kì Đế chế (thế kỉ I – V)è Tóm lại: Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp và La Mã đã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư dân gốc du mục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ yếu được hình thành trên những khu vực gần các con sông lớn, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển trên những khu vực điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều kiện tự nhiên đó tuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền văn minh phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con đường giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè… không chỉ tạo điều kiện phát triển trong mối quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang những thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời bấy giờ đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại.Chính sự phát triển của chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với những con đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng đã thúc đẩy quá trình bành trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ đại: Hi Lạp và La Mã.Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở tạo ra nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tự nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổ đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác nhau: hòa bình hoặc chiến tranh.2. Phương Tây thời kì trung đại (Tây Âu)2.1 Thời kì phong kiến Tây ÂuVào thời kì cuối của đế quốc Rôma, chế độ chiếm hữu nô lệ bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, kinh tế suy sụp, nền văn hóa huy hoàng một thời cũng dần lụi tàn. Bên cạnh đó, những cuộc viễn chinh của các tộc Giecmanh đã tàn phá nặng nề những di sản của nền văn minh cổ đại.Bước vào đầu thời kì trung đại, các quốc gia phong kiến dần hình thành, cùng với nó là sự ra đời của các thành thị trung đại và nền kinh tế hàng hóa phong kiến. Tuy nhiên, cũng chính thành thị và nền kinh tế hàng hóa đã ngầm phá hoại dần chế độ phong kiến.Một đặc điểm đáng lưu ý của thời kì này là đạo Kitô đã trở thành tôn giáo phục vụ đắc lực cho cho chế độ phong kiến. Chính sự yếu kém của nền kinh tế và suy tàn về văn hóa là nền tảng để truyền bá những học thuyết cuồng tín, ma quỷ… được giáo sĩ, nhà thờ tận dụng triệt để để bảo vệ tối đa quyền lợi cho giai cấp thống trị. Tòa thánh Rôma lúc này rất có thế lực về chính trị, cùng với giai cấp phong kiến Tây Âu, trong gần 200 năm đã tiến hành 8 cuộc viễn chinh sang phương Đông, được gọi là “Những cuộc viễn chinh của quân Thập tự”. Đây được xem như một cuộc chiến tranh xâm lược và bành trướng cả về kinh tế lẫn văn hóa. Cuộc viễn chinh để lại nhiều hệ quả tốt xấu khác nhau nhưng nhìn chung cũng đã mang lại những hệ quả tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế - văn hóa Tây Âu phát triển một bước.Tóm lại, giai đoạn phong kiến Tây Âu từ thế kỉ X – XIII, tuy bị giáo hội Thiên chúa lũng đoạn về tư tưởng nhưng cũng về văn hóa cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Đó là một trong những tiền đề quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của văn hóa Phục hưng giai đoạn sau.2.2 Thời kì văn hóa Phục hưngCuối thời trung đại, ở châu Âu xuất hiện một phong trào văn hóa mới, gọi là phong trào văn hóa Phục hưng. Văn hóa Phục hưng không chỉ là một phong trào phục hồi văn hóa Hy-La cổ đại một cách đơn thuần mà nó được nảy sinh và phát triển dựa trên những điều kiện lịch sử mới.Từ thế kỉ XIV – XVI, những mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu xuất hiện ở các quốc gia Tây Âu ngay trong lòng chế độ phong kiến. Đến thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản chính thức ra đời và phát triển ở châu Âu. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã mang đến cho xã hội loài người nói chung và châu Âu nói riêng một sự tiến bộ vượt bậc cả về kinh tế lẫn xã hội, thể hiện rõ tính chất của một chế độ ưu việt hơn chế độ phong kiến với nhiều tác động tích cực làm thay đổi xã hội. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế các nước, quan hệ sản xuất tư bản xâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Về xã hội, cùng với nền sản xuất mới đã làm xuất hiện hai giai cấp mới đối lập nhau về quyền lợi kinh tế, chính trị là giai cấp tư sản và vô sản. Trong buổi đầu hình thành, giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ, đại diện cho một phương thức sản xuất mới, làm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đã tạo ra những biến động lớn. Cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản là sự ra đời của một trào lưu tư tưởng mới tiến bộ hơn, đối lập với hệ tư tưởng phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa tư sản và phong kiến trong buổi đầu chính là cuộc đấu tranh hết sức gay gắt và quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng, tạo ra một phong trào quyết liệt và mạnh mẽ là “Phong trào văn hóa Phục hưng”. Thực chất đó là trận chiến đầu tiên của hai giai cấp đối lập nhau, một là giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng lạc hậu, lỗi thời với một nền kinh tế yếu kém với một giai cấp mới đang lên là giai cấp tư sản với sự tiến bộ và ưu việt về nhiều mặt.Như vậy, châu Âu thời hậu kì trung đại đã có những biến đổi về mọi mặt. Từ trong lòng xã hội phong kiến, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tư bản đã ra đời với những tiến bộ vượt bậc đã thúc đẩy nền kinh tế các nước nhanh chóng phát triển. Giai cấp tư sản với thế lực kinh tế ngày càng mạnh đang gặp phải những trở lực từ phong kiến và giáo hội mang nặng tính chất bảo thủ và kiên cố. Chính vì vậy, châu Âu từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI sôi động và quyết liệt với cuộc đấu tranh toàn diện của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, khoa học, văn hóa-nghệ thuật, tư tưởng và tôn giáo với những thành tựu rực rỡ. Bên cạnh đó, giai đoạn nửa sau thế kỉ XV, người châu Âu đã tiến hành nhiều cuộc thám hiểm vượt đại dương với mục đích tìm con đường biển sang phương Đông: Cuộc thám hiểm tìm ra châu Mĩ (1492) của Christopho Columbo, cuộc thám hiểm đi vòng quanh thế giới của Magienlăng (1519 – 1522)…cùng với những cuộc thám hiểm là những phát kiến địa lý khai phá những vùng đất mới, mang một nền văn hóa mới của châu Âu đến các quốc gia, dân tộc trên khắp thế giới.Giai đoạn văn hóa Phục hưng chính là tiền đề trực tiếp cho văn minh châu Âu thời kì cận-hiện đại.II. Những thành tựu của văn hóa phương Tây cổ - trung đại và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa thế giới1. Chữ viếtNhững thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao, một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế kỉ VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27 chữ 9sau này rút lại còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và được coi là thứ chữ đẹp nhất thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và tiện dụng.So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái Hi Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái người ta có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng nhất bằng cách ghép chữ dựa theo âm tiết. Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm:Chữ Hoa:Α, Β, Γ, Δ, Ε, Ζ, Η, Θ, Ι, Κ, Λ, Μ, Ν, Ξ, Ο, Π, Ρ, Σ, Τ, Υ, Φ, Χ, Ψ, Ω.Chữ Thường:α, β, γ, δ, ε, ζ, η, θ, ι, κ, λ, μ, ν, ξ, ο, π, ρ, σ (ς), τ, υ, φ, χ, ψ, ω.Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời Phục hưng trở đi. Tiếng Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp cổ đại nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống nhau. Trên thế giới có khoảng 12 triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia có người Hy Lạp sinh sống).Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN nhưng đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh.Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.2. Văn họcVăn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ, kịch. Theo tiếng Hi Lạp thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những câu chuyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kì ảo gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng, dũng sĩ Hi Lạp...Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các vị thần. Hệ thống các vị thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú, được miêu tả rất gần với cuộc sống đời thường của con người, khác với các vị thần của phương Đông. Sau này người La Mã đã tiếp thu các vị thần của Hi Lạp và cải biên đi thành các vị thần của mình:- Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus- Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp- Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp…Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng sau cái vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề nhân văn và nhân sinh rất con người được thể hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay vô số chủ đề thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ những vị thần của Hi Lạp. Những giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có thể được bắt nguồn từ đây.Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác của Hi Lạp: thơ, kịch, kiến trúc, điêu khắc…Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả về lịch sử lẫn văn học, để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày nay: gót chân Asin, con ngựa thành Troy…Hai bộ sử thi này cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch nổi tiếng: Etsin, Sôpôclơ…Đây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương đại. Sau này chính Shakespear là người đã kế thừa truyền thống và tinh hoa của kịch Hi Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại và quy mô: nhà hát Athens.Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như tráng sĩ Agamemnong trở thành nhân vật trong vở Orextex của Etsin.Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp và La Mã, văn học Tây Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học thế giới.Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì phục hưng. Ngoài ra còn có Pêtêraca, Bôcaixô…đây đều là những tác giả say mê nghiên cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định từ nền văn học của Hi Lạp và La Mã. Về tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất của văn học Phục hưng Pháp với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăngchuya và người con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương. Đặc biệt trong nền văn học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh là nhà văn Xecvantec với tác phẩm Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh chân thực, rõ ràng về xã hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI, đồng thời cũng là tác phẩm châm biếm toàn bộ xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm không cần phải nói gì nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và tác phẩm, đủ cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại của không chỉ của nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và Juliet, Hămlet, Macbeth, vua Lear…Những tác phẩm của ông vừa mang tính chất bi kịch vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống huy hoàng, mạnh mẽ. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã được cả thế giới công nhận “Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà ông thuộc về mọi thời đại”, các tác phẩm của ông cho đến ngày nay vẫn đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu kịch châu Âu và thế giới. Tài năng của Shakespears được K. Marx và F. Engels nhắc nhiều trong các tác phẩm của mình.Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy một số tác phẩm của Shakespear*Vài nét về Shakespears: ông sinh ra và lớn lên ở Staford, trong một gia đình khá giả, ông được học hành tử tế cho đến năm 18 tuổi phải thôi học vì hoàn cảnh gia đình và lấy vợ. Cuộc đời Shakespear trải qua nhiều thăng trầm, để có thể viết kịch và làm trong nhà hát ông đã phải làm rất nhiều nghề: nhắc tuồng, giữ chân ngựa, sửa bản in…nhưng cuối cùng đã trở thành một nhà viết kịch thiên tài của thế giới.Nhìn chung, văn học thời kì Phục hưng mang tính nhân văn sâu sắc, một mặt văn học đóng vai trò phê phán lên án giáo hội và phong kiến, mặt khác nó lại đề cao những giá trị con người, tính lạc quan, lòng yêu tự do, công bằng, danh dự… Tuy nhiên nền văn học Phục hưng cũng là một trong những cơ sở cho sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân sau này.èTóm lại, trải qua một thời dài từ cổ đại đến trung đại, nền văn học phương Tây đã để lại cho thế giới một kho tàng văn học đồ sộ với một hệ thống các tác phẩm có giá trị về nhiều mặt, nhiều tác phẩm được xem là khuôn mẫu, chuẩn mực cho văn học và nghệ thuật của châu Âu và thế giới. Sự đóng góp và ảnh hưởng của những thành tựu văn học phương Tây cổ trung đại đối với châu Âu và thế giới không chỉ trong giai đoạn cổ trung đại mà cho đến tận ngày nay, nhiều tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và không ngừng được khai thác, nghiên cứu, phát triển nhiều mặt.3. Nghệ thuậtTrong số những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp và La Mã thời kì cổ trung đại đối với thế giới, người ta đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của những thành tựu về nghệ thuật, bao gồm 3 lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Văn minh Hi-La được xem là nền tảng, là cơ sở của văn minh Tây Âu – châu Âu cận hiện đại, có thể nói nếu không có những thành tựu của văn minh Hi-La thì không thể có văn minh Tây Âu trung đại và châu Âu ngày nay. Trên nền tảng của nghệ thuật Hi-La, nghệ thuật Phục hưng đã kế thừa và phát triển một cách rực rỡ, để lại những giá trị và thành tựu đặc sắc, đưa nghệ thuật Tây Âu mang tầm giá trị thời đại.3.1 Kiến trúcMặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwời Hi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt tác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phidias.Tọa lạc trên đỉnh đồi Acropolis, từ đây người ta có thể quan sát toàn bộ khu vực Athens. Đền Parthernon dài 70 m, rộng 314 m, cao 14 m được xây dựng để thờ nữ thần Athena, vị thần bảo hộ của Athens. Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn được chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.*Ngôi đền Delphi, sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hi Lạp và vùng tiểu Á được xây dựng vào thế kỉ V TCN để thờ thần Apolo – thần mặt trời (nay thuộc thành phố Ephesus – Thổ Nhĩ Kì).Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chất riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đường nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơn điệu, nặng nề nhưng vững chắc.Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi 524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoại cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với các thư viện và phòng đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòng trưng bày nghệ thuật…Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại sau hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138) sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.Đặc điểm nổi bật của kiến trúc La Mã chính là kĩ thuật vòm cuốn, có thể thấy được qua những công trình kiến trúc tiêu biểu.Đấu trường Colosseum của La Mã và đền Parthenon của Hi Lạp là 2 trong số 7 kì quan của thế giới cổ đại.èNhững thành tựu của kiến trúc Hi-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng dụng cho những công trình kiến trúc hiện đại.Kiến trúc thời Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa, nổi bật lên với 2 phong cách kiến trúc tiêu biểu là kiến trúc Gôtich và Roman. Cả hai phong cách kiến trúc này đều là sự kế thừa và phát triển từ nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp và La Mã cổ đại. Nghệ thuật kiến trúc thời Phục hưng thể hiện sự giàu có, lộng lẫy cao sang quý phái.Những thánh đường Kitô giáo có kiến trúc chủ yếu mang phong cách Roman, Gô tích và Cổ điển Hy Lạp-La Mã. Khi đạo Kitô phát triển mạnh mẽ, những phong cách kiến trúc này đã được mang đến khắp nơi trên thế giới.è Tóm lại, kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc thời cổ trung đại của Hi-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan rộng toàn thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra phong cách kiến trúc châu Âu ở rất nhiều công trình kiến trúc lớn, nhỏ ở rất hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay.3.2 Hội họa và điêu khắcCùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không hai trong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitele và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite (thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại, chưa có nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình độ nghệ thuật của người Hi Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus ở Olympia, một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hi Lạp là Phidias.Ngoài ra, tượng nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là những tác phẩm tuyệt vời thể hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại.Về hội họa người Hi Lạp cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm hiện nay không còn được lưu giữ. Theo nghiên cứu, những họa sĩ Hi Lạp là người đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ xa gần của các nhân vật trong tranh. Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người La Mã phỏng theo họa mà ra.Đỉnh cao của hội họa phương Tây chính là hội họa thời Phục hưng. Bước sang thế kỉ XVI, nghệ thuật Phục hưng phát triển đến đỉnh cao với các tên tuổi của Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael…Đặc điểm nổi bật của hội họa thời Phục hưng chính là sự biểu hiện tinh tế đời sống nội tâm, chiều sâu cá tính của nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhiều tác phẩm nổi tiếng của các họa sĩ thời kì này.Leonardo da Vinci (1452-1519) là một thiên tài của nước Ý trên lĩnh vực nghệ thuật. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng La Joconde , Đức mẹ đồng trinh trong hang đá… Ông nghiên cứu rất kĩ và sâu sắc về tâm lý, giải phẩu; xác định cá quy luật phối cảnh, ánh sáng… Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.Michelangelo (1475-1564) cũng là một người Ý, sống cùng thời với Leonardo da Vinci. Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Ông là người đã đưa điêu khắc Phục hưng đến tuyệt đỉnh. Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của ông là bức tượng David. Tượng được tạc trên đá cẩm thạch cao 5.3m, thể hiện một chàng thanh niên đang độ đôi mươi với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng David, Michelangelo thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ. Ông là kiến trúc sư đầu tiên thiết kế thánh đường Xanh Pie (nhà thờ thánh Peter ở La Mã), sau khi ông mất nhiều chi tiết đã bị thay đổi nhưng nguyên mẫu vẫn là thiết kế của ông. Về hội họa ông cũng đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Sáng tạo thế giới, Cuộc phán xét cuối cùng…Trong đó tác phẩm lớn nhất là bức họa Sáng tạo thế giới với 343 nhân vật được ông vẽ trong 4 suốt 4 năm. Tác phẩm này được trang trí trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican.Raphael Sanzio (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài người Ý. Tác phẩm của ông thường thể hiện quang cảnh vui tươi, êm dịu, cuộc sống sung túc; hình ảnh những người phụ nữ đẹp, hiền hậu; trẻ em ngây thơ… Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Người làm vườn xinh đẹp; ngoài ra còn có các bức tranh về Thánh mẫu…èTóm lại, nghệ thuật Phục hưng chính là sự hồi sinh hay sự khôi phục lại những giá trị của nghệ thuật Hi-La cổ đại. Phong trào văn hóa Phục hưng là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử văn minh Tây Âu. Phong trào đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại “những con người khổng lồ” với những tác phẩm bất hủ tồn tại cùng thời gian, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa thế giới.4. Giáo dụcTại Hi Lạp, trong giai đoạn phát triển rực rỡ của nhà nước Athens và Spart, giáo dục đã được chú trọng. Trong khi thành bang Spart chủ yếu chú trọng đến giáo dục quân sự thì Athens xây dựng một nền giáo dục theo hướng tự do dân chủ.Tại La Mã, dưới thời kì đế chế, giáo dục phát triển với những nội dung, đề tài giáo dục liên quan nhiều đến chính trị, chiến tranh, chủ yếu để đào tạo những ra những thủ lĩnh quân sự, những nhà lãnh đạo, quản lý chính quyền.Trong thời kì cổ đại, giáo dục Hi Lạp và La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người họ cần cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic…với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc. Đây là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.Đến trước thế kỉ X, giáo dục Tây Âu chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo hội và kinh thánh. Đầu thế kỉ XI, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, sự đòi hỏi của con người về tri thức ngày càng cao nhiều trường đại học đã ra đời ở nhiều nước khi giáo dục giáo hội không còn đủ điều kiện để đáp ứng. Trường đại học ra đời sớm nhất là Đại học Bôlôna ở Italia. Sang thế kỉ XII, XIII, rất nhiều trường đại học khác đã lần lượt xuất hiện: Đại học Pari, đại học Oóclêăng (Pháp); đại học Oxford, đại học Cambridge (Anh); đại học Xalamanca ở Tây Ban Nha…Đến cuối thế kỉ XIV ở châu Âu đã có tất cả hơn 40 trường đại học.Ngôn ngữ được giảng dạy ở các trường đại học là tiếng Latinh. Phương pháp học tập là nghe giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan trọng. Khi tốt nghiệp sinh viên phải làm và bảo vệ luận văn.èNhư vậy, ngay từ thời cổ đại, những con người năng động, tích cực của phương Tây đã tạo ra một nền giáo dục hết sức tiến bộ cả về phương pháp lẫn nội dung giảng dạy. Sự vượt trội về tư duy và phương pháp giáo dục ngay buổi đầu đã tạo một nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Tây Âu sau này. Những nội dung và phương pháp giáo dục thời cổ đại hầu như được tiếp nhận và áp dụng trong các thời kì sau. Điều này rất dễ lý giải cho sự tiến bộ vượt bậc và hiệu của nền giáo dục phương Tây hiện nay. Hầu hết những trường đại học thời trung đại hiện nay đều trở thành những trường đại học danh tiếng của thế giới, nơi đào tạo những con người với bộ óc tuyệt vời cho mọi quốc gia. Mọi quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hiện nay đều tiếp nhận nền giáo dục tiên tiến của phương Tây.5. Tổ chức nhà nước và luật phápKhi nói đến văn minh phương Đông người ta nhắc nhiều đến những thành tựu văn hóa thiên về lĩnh vực tinh thần còn khi nói đến văn minh phương Tây người ta hay nói đến những thành tựu văn minh thiên về giá trị vật chất cho nhân loại. Một trong số những thành tựu đó là tổ chức nhà nước và luật pháp.Trong hàng chục quốc gia thành thị của Hi Lạp thì Athens có hình thức nhà nước dân chủ điển hình nhất và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Hi Lạp cổ đại. Ra đời trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc, nhà nước dân chủ chủ nô Athens dân chủ hóa và hoàn thiện qua những cải cách: cải cách Solon, cải cách Cleisthenes. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm các cơ quan như: Đại hội nhân dân, Hội đồng nhân dân (hội đồng 500), Tòa án nhân dân, Hội đồng cấp chính (hội đồng trưởng lão )…được sửa đổi và bổ sung qua từng thời kì khác nhau nhằm tăng cường và hoàn thiện thể chế dân chủ. Đỉnh cao của thể chế nhà nước Athens là dưới thời Pericles.Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người Hi Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại.Khi nhà nước La Mã thành lập đã cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên Luật 12 bảng trên cơ sở kế thừa và tham khảo luật Solon của người Hi Lạp. Nội dung bộ luật khá rộng rãi và tiến bộ, nó chống lại sự xét xử độc đoán của quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân, đề ra những nguyên tắc về tố tụng, vấn đề thừa kế tài sản… Mặc dù còn nhiều hạn chế khi xét về bản chất vẫn là bảo hệ quyền lợi cho giai cấp quý tộc, tuy nhiên tại thời điểm đó, bộ luật là một sự tiến bộ đối với xã hội đương thời.èTóm lại, những hạn chế về thời đại là không tránh khỏi nhưng thiết chế nhà nước dân chủ và những bộ luật được ban hành của Hi Lạp và La Mã là biểu hiện của sự văn minh về mặt chính trị và xã hội. Sau này, trong thời kì trung đại, để chống lại phong kiến, giai cấp tư sản không chỉ khôi phục lại những của nền văn hóa Hi-La mà còn dựa trên những thành tựu về nhà nước và luật pháp của Hi-La cổ đại để thiết lập nên thể chế chính trị và nền dân chủ của giai cấp tư sản. Các hình thức nhà nước quân chủ và chế độ cộng hòa qua các giai đoạn lịch sử sau này chính là sự kế thừa và phát triển từ thể chế chính trị của Hi Lạp và La Mã. Những thuật ngữ chính trị quen dùng ngày nay như: chính trị, dân chủ, quân chủ, cộng hòa…đều có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp.6. Thể thaoThể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.
Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp.Thế vận hội Olympic ngày nay chính là sự bắt nguồn từ thể thao của Hi Lạp. Cũng 4 năm tổ chức một lần tại các thành phố lớn, thế vận hội Olympic đã trở thành thành sân chơi thể thao của cả thế giới với nhiều nội dung thi đấu phong phú và đa dạng. Olympic hiện nay là đỉnh cao của thể thao nhân loại. Năm 2004 Olympic được tổ chức tại Athens – Hi Lạp, lần đầu tiên được trở về với nơi mà hoạt động thể thao này đã ra đời từ thời cổ đại.6. Tôn giáoThời cổ đại, người Hy Lạp theo đa thần giáo. Về sau khi tiếp xúc với nền văn hóa Hy Lạp, người La Mã đã tiếp thu toàn bộ hệ thống thần thoại Hy Lạp và đổi tên gọi các vị thần Hy Lạp theo kiểu La Mã.Đến cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I – TCN, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Trong buổi đầu, đạo Kitô là tôn giáo của những người nghèo khổ, của những người chịu nhiều áp bức trong xã hội. đạo tuyên truyền những tư tưởng bình đẳng, bác ái của con người trước Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế độ thống trị hà khắc của chính quyền lúc bấy giờ. Đạo có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã hội và vượt ra khỏi phạm vi La Mã.Hiện nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng lan rộng hầu khắp các quốc gia.Thời kì trung đại, cùng với những cuộc cải cách tôn giáo đã cho ra đời tôn giáo mới trên cơ sở sự điều chỉnh và tách ra từ giáo hội Kitô: đạo Tin lành, Công giáo, Thiên chúa giáo...Đây đều là những tôn giáo lớn và có tầm ảnh hưởng đến thế giới.èTôn giáo phương Tây thời kì cổ trung đại qua các thời kì phát triển đã tác động nhiều mặt đến nền văn hóa-nghệ thuật thế giới: kiến trúc, hội họa, đieu khắc… và đời sống của con người. Hiện nay mức độ ảnh hưởng của các tôn giáo đã mang tầm thế giới. Sự ảnh hưởng của các tôn giáo hiện nay đối với thế giới là sự tác động đa chiều, nhiều mặt và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.III. Kết luậnNhững thành tựu rực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh hào quang rực rỡ nhất. Cùng với những giá trị của văn minh thời kì trung đại mà điển hình là phong trào văn hóa Phục hưng, văn minh phương Tây thời kì cổ trung đại đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đại được khẳng định và thừa nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh hưởng đến thời đại ngày nay.Khẳng định những giá trị và đóng góp của văn minh Hi-La cổ đại, Engels viết: “Dại dột là những ai không thấy hết giá trị của thời cổ đại Hi Lạp đối với chủ nghĩa xã hội vừa chiến thắng trong sự nghiệp xây dựng lại đời sống nhân loại” và “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hi Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hi Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và Đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại”. Nói như vậy để thấy được giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây thời kì cổ trung đại đối với nền văn hóa thế giới lớn như thế nào.@sen phùng
Phung Quang Hai
7 tháng 12 2016 lúc 19:12

vuon tre balil la thanh tuu van hoa cua