Ánh trăng - Nguyễn Duy

thao nguyen
Xem chi tiết
Nguyễn Thanh Tùng
30 tháng 6 2017 lúc 14:43

- Đạo lí: "Uống nước nhớ nguồn"

Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam chứa đựng nhiều kinh nghiệm quý báu, nhiều bài học đạo lý nhắc nhở con người sống đúng, sống đẹp,một trong những câu tục ngữ đó là ”Uống nước nhớ nguồn”. Vậy ”Uống nước nhớ nguồn” là gì? Uống nước là hưởng thành quả, sản phẩm vật chất, tinh thần của người khác. Nhớ nguồn là người hưởng thụ phải tri ân, gìn giữ và phát huy thành quả của người làm ra chúng. Câu tục ngữ nói lên lòng biết ơn những người làm ra thành quả cho chúng ta hưởng thụ. Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ và nhắc nhở mọi người sống có đạo lý, nhân nghĩa bởi cuộc đời cũng có những kẻ vô ơn “Qua cầu rút ván”, “Có mới nới cũ”, “Uống nước quên người đào giếng”. Nhớ ơn vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc ta từ xưa đến nay. Thật vậy, trong gia đình con cái phải biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ được thể hiện qua các ngày giỗ, ngày lễ, thờ phụng, thăm viếng mồ mã ông bà, tổ tiên và yêu kính cha mẹ. Trong nhà trường, học sinh phải biết ơn thầy cô vì “Không thầy đố mày làm nên”, hàng năm có ngày kỉ niệm Nhà giáo Việt Nam 20/11 để tôn vinh thầy cô. Trong xã hội, thế hệ sau phải nhớ ơn thế hệ trước đã chiến đấu hi sinh, đổ bao mồ hôi nước mắt để bảo vệ, xây dựng đất nước như ngày nay, có phong trào đền ơn đáp nghĩa thể hiện lòng biết ơn những thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng , bà mẹ Việt Nam anh hùng. Một đất nước, xã hội, gia đình mà giữ được truyền thống đạo lý ”Uống nước nhớ nguồn” là một đất nước, xã hội, gia đình tốt đẹp, bền vững. Chúng ta cần có ý thức vun đắp, bảo vệ, góp phần xây dựng thành quả đạt được làm cho gia đình hạnh phúc, đất nước giàu mạnh.Câu tục ngữ là lời khuyên,là lời nhắc nhở ngắn gọn, súc tích mà ý nghĩa thật sâu sắc.Là học sinh, hơn ai hết, cta phải khắc ghi trong lòng công ơn sinh thành nuôi nấng của cha mẹ và công lao tận tâm dạy dỗ của tcô giáo, phải biết bảo vệ các thành quả vật chất và tinh thần của bao thế hệ cha ông để lại, đồng thòi phải biết kế thừa và phát huy thành quả đó.

Bình luận (2)
Ṇĝuŷėṇ Ħỏǡŋġ
Xem chi tiết
thuongnguyen
14 tháng 10 2017 lúc 15:29
Lập dàn ý Mở bài sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm

– Giới thiệu về ánh trăng: như một người bạn gắn bó.

– Sự khám phá vẻ đẹp của ánh trăng được phô diễn trong các vần thơ.

– Ánh trăng vĩnh hằng, bất diệt thể hiện trong 3 tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá; Đồng Chí; Ánh trăng…

Thân bài : Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm

– Hình ảnh ánh trăng làm bạn đồng hành, cùng đồng cam cộng khổ với các anh bộ đội trong tác phẩm Đồng Chí

– Cách xây dựng hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu mang tính biểu tượng sâu sắc.

– Hình ảnh ánh trăng trong thơ của Huy Cận mang đậm chất vui tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng biển

– Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người lao động

– Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không khí vừa hứng khởi lại vừa nên thơ

– Vẻ đẹp của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng còn pha màu triết lí thâm trầm và đầy ấn tượng trong thơ Nguyễn Duy.

– Tác giả Nguyễn Duy như nhìn thấy phần khuất tối của mình, thấy được sự vô tâm, quên lãng đáng trách.

– Bài thơ “Ánh trăng” là dòng hoài niệm của nhà thơ về quá khứ nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc

Kết bài: Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm:

– Khẳng định là về ý nghĩa, vẻ đẹp, sự thủy chung của trăng qua hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm.

Bài làm:

Có thể nói trăng là sự kết tinh của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, vẻ đẹp của nó đủ để làm mê đắm hồn thi nhân. Trăng như một người bạn hữu gắn bó bền chặt với con người, là thú vui để họ đăng lầu vọng nguyệt, đàm đạo thi ca. Ánh trăng dát vàng lung linh ánh sáng dịu nhẹ ấy tỏa lan mọi nẻo đường, nó như chạm đến cả tâm hồn thi nhân. Bởi vậy mà trăng luôn là bến đợi, bến chờ của nhiều tác giả. Họ đã đi sâu vào khám phá mọi khía cạnh trong vẻ đẹp của ánh trăng bằng sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Và sự khám phá ấy như được phô diễn, được thấm nhuần qua từng câu thơ, từng trang viết. Hình ảnh Ánh trăng đã đi vào thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, giờ đây nó như hiện hữu bất diệt trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận; “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đó đều là những thi phẩm tràn ngập ánh trăng.

Trong vườn thơ dân tộc, ta đã bắt gặp hình ảnh ánh trăng trong nhiều thi phẩm với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó bao trùm tạo vật, gắn bó với con người dẫu đó là lúc gian khổ của chiến tranh khi hòa bình lập lại. Phải chăng vì thế mà nó đã được các nhà thơ khám phá và thể hiện một cách vừa gần gũi lại vừa riêng biệt trên những trang viết của mình? Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, ta dễ bắt gặp hình ảnh ánh trăng đồng cam cộng khổ cùng những người lính trong thời chống Pháp. Nhà thơ đã gợi mở một không gian bao la của núi rừng Việt Bắc, một hoàn cảnh khắc nghiệt của đêm đông lạnh giá để rồi trăng xuất hiện làm tan biến hết những gian khổ thử thách ấy. Nếu qua những “Cơn ớn lạnh”, những trận “Sốt run người” và những thiếu thốn về vật chất, ta thấy những biểu hiện yêu thương đùm bọc của tình đồng chí thì khổ thơ cuối lại nêu lên những biểu hiện cao đẹp nhất, đó là chung chiến hào:

“ Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Trong đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu, trong gian khổ khắc nghiệt, trong căng thẳng “Chờ giặc tới” thi các chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau.Và trong hoàn cảnh đó thì trăng cũng như một người đồng chí, đồng đội luôn gắn bó và tỏa ánh sáng ấm nồng làm dịu đi cái rét buốt của thiên nhiên. Ánh trăng soi sáng tạo vật, rọi sáng mọi nẻo đường lối đi của các anh lính Cụ Hồ. Nếu người lính trên đường ra trận có ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan thì người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” lại có “đầu súng trăng treo”. Dưới cái nhìn của người lính thì súng và trăng không còn khoảng cách nữa mà quấn quyện với nhau làm tan biến cái hiện thực của chiến tranh gian khổ. Hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu khiến người đọc mê đắm và hòa mình vào không gian bao lãng mạn dưới ánh sáng dát vàng lung linh. Nó như nguồn sáng vô tận rọi vào bức tranh một ánh sáng riêng, một màu sắc riêng thấm đẫm tình người. Phải chăng đó chính là sự khám phá sâu sắc, sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ?

hinh-anh-anh-trang-trong-bai-tho-dong-chi

Bài thơ “Đồng Chí” quả thực là một thi phẩm tràn ngập ánh trăng. Nó thể hiện rõ phong cách thơ Chính Hữu. Ngôn ngữ thơ hàm sức, mộc mạc, tiết kiệm trong từng hình ảnh, từng câu chữ mà gợi lên nhiều ý nghĩa. Câu thơ chắc gọn bên ngoài mà ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết bên trong. Có thể nói, nét độc đáo và đặc sắc nhất trong cách thể hiện của Chính Hữu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn. Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc “Súng” và “trăng” là gần và xa, là thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ. Phải chăng đó là cách thể hiện rất riêng trong thơ Chính Hữu?

Cũng viết về hình ảnh ánh trăng nhưng trong thời kì đổi mới ở miền Bắc thì Huy Cận lại có sự khám phá rất khác biệt so với Chính Hữu. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”; người đọc như được đắm mình trong những trang viết thấm nhuần ánh trăng cuộc sống lao động. Nếu trước năm 1945, thơ Huy Cận giàu chất triết lý và thấm thía bao nỗi buồn thì sau Cách mạng, thơ ông lại dạt dào niềm vui, nhất là khi ông nói về cuộc sống mới, con người mới. Phải chăng vì thế mà hình ảnh ánh trăng trong thơ của ông cũng mang đậm chất vui tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng biển? Huy Cận đã hòa nhập vào cuộc sống lao động và khai thác ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người lao động làm chủ cuộc đời. Nhà thơ đã gợi lên bầu không khí hồ hởi, tràn ngập sức sống của cảnh đánh cá trên biển mênh mông rộng lớn. Ông đã nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người để rồi vẽ nên một khung cảnh lao động vừa thực vừa ảo:

“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Nếu trong cảnh rừng hoang sương muối, trang đồng cam cộng khổ như một người đồng chí, đồng đội thì giờ đây trong công việc đánh bắt cá của ngư dân, trăng lại là một người bạn đồng hành trên mọi chuyến ra khơi. Đoàn thuyền “lướt”nhẹ mà nhanh trên mặt biển hiền hòa phẳng lặng như một tấm gương soi cảnh trời mây. Trong cái tốc độ phi thường của con thuyền thì có gió lái thuyền đi, buồm đầy trăng sáng. Nhưng nhà thơ lại viết “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” thì hình như nó đã biến thành đoàn thuyền của toa nhận mặc khách rồi, đâu còn là đoàn thuyền của ngư dân đánh cá nữa! Ánh trăng theo con người đi khắp biển khơi, tỏa ánh sáng lung linh dát vàng trong đèn tối soi tỏ mọi hoạt động của ngư dân. Biển nước chan hòa ánh trăng làm lộ ra những con cá rực rỡ sắc màu. Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không khí vừa hứng khởi lại vừa nên thơ, khiến người đọc như đi vào cõi mộng. Phải chăng đó chính là sự khám phá của Huy Cận về hình ảnh ánh trăng tròn và sự gắn bó với con người lao động làm chủ đất nước?

Nhà thơ đã vẽ nên một khung cảnh lao động tràn ngập ánh trăng với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, với trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện. Huy Cận đã sáng tạo hình ảnh đẹp, độc đáo qua cách sử dụng màu sắc, sử dụng các thủ thuật nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng. Từng câu thơ đều thấm đượm bao sức sống mãnh liệt của người dân vùng biển cũng thấm đượm ánh trăng. Đó chính là cách thể hiện rất riêng trong thơ Huy Cận.

Thơ Nguyễn Duy cũng đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng còn pha màu triết lí thâm trầm và đầy ấn tượng. Ánh trăng ấy tỏa sáng bất diệt, vĩnh hằng trong bài thơ “Ánh trăng” một bài thơ được cô đúc nên từ tâm sự.

Có lẽ nhìn trăng tác giả như nhìn thấy phần khuất tối của mình, thấy được sự vô tâm, quên lãng đáng trách. Xưa, Nguyễn Tuân đã từng coi trăng là “cố nhân”, Xuân Diệu trong bài “Nguyệt Cầm” cũng đã tha thiết gọi: “Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần”. Trở lại với bài thơ “Ánh trăng”, bao nhiêu cảm xúc dường như nén lại nhưng nó cứ thổn thức trong lòng. Trong cái khoảnh khắc bất ngờ ấy khiến cho lòng người trở nên “rưng rưng” – cái “rưng rưng” làm cho con người thanh thản lại, vững tâm lại, cái tốt như hé lộ. Cái nút tâm lí giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự cũng đang dần được tháo gỡ. Cuộc gặp gỡ giữa trăng với người không hề “tay bắt mặt mừng” mà lắng xuống ở độ sâu cảm nghĩ. Xưa Lí Bạch có viết:

“ Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương”

Nếu ở đây, hai câu thơ trên khơi nguồn cảm xúc cho thơ hướng về quê hương thì trong thơ Nguyễn Duy, trăng lại đưa người đọc tìm về những miền kí ức xa xăm trong quá khứ. Nhìn trăng, nhà thơ nhìn thấy bao kỉ niệm đẹp chợt ùa về – những kỉ niệm đầm ấm nghĩa tình. “Đồng, sông, bể, rừng” tất cả những thứ ấy, thứ quen thuộc với quá khứ lại hiện hữu trong tâm trí con người. Những chặng đường của quá khứ và hiện tại cứ nối nhau, lúc thì đan xen, khi thì tách rời khiến ta nhìn rõ nét băm khoăn, rối bời của tâm trạng. Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng như gợi lên báo cái “còn” mà con người tưởng chừng như đã mất. Hai gương mặt đối diện với nhau ở đây lấp lánh những điều không nói. Phải chăng nó khiến ta nhớ đến khi tình yêu mới bén giữa Kim Trọng và Thúy Kiều? Cũng chính trong giây phút ấy, vầng trăng đã trả cho nhà thơ sự vô tư và tình người dạt dào. Đoạn thơ như đã khắc sâu điều mà nhà thơ muốn tâm sự. Phải chăng những kỉ niệm này cũng khơi dậy cái ân tình sâu nặng của một thế thời chinh chiến?

Nguyễn Duy đã đem phần đẹp nhất, nhân hậu nhất, trong sáng nhất của trăng để soi vào phần đen tối nhất của con người. Trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho sự bất biến, cho vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc đời. Thời gian, kỉ niệm cứ như dòng chảy không ngừng những nó đâu cuốn đi được lòng thủy chung son sắt của trăng? Cái tròn đầy đó đối lập với cái hụt với của kẻ vô tình. Trăng bao dung độ lượng biết bao! . “Ánh trăng im phăng phắc” gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc khiến nhà thơ giật mình thức tỉnh mặc dù trăng không một lời oán trách. Nhìn trăng – tác giả như nhìn thấy sự vô tâm quên lãng của mình đối với người bạn tri kỉ trong một thời gian quá khứ. Cái “Giật mình” ấy thật đáng trân trọng – một sự thức tỉnh của lương tâm. Phải chăng qua đó tác giả muốn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh mọi người? Thế mới biết, những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách ở hay từ những khái niệm trừu ượng xa xôi!

Trong bài thơ, ánh trăng tỏa sáng không gian, rọi sáng tâm hồn, làm sống dậy trong tâm trí con người bao kỉ niệm gian lao mà đầm ấm nghĩa tình. Những tâm sự sâu kín của người thi sĩ giờ đây là tình cảm chung của cả một thế hệ nặng sâu ân tình. Ta dễ thấy, suốt cả bài thơ chỉ có một chủ thể nhưng cái chủ thể ấy lại dấu mình vô danh. Phải chăng qua đó, Nguyễn Duy muốn nói lên tâm sự chung của mọi người thuộc cùng thế hệ? Cả bài thơ là dòng hoài niệm của nhà thơ về quá khứ nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc. Đó không còn là một câu chuyện riêng, một tâm sự riêng mà là tiếng lòng sâu sắc của bao người khác. Cái “tôi” chủ quan giờ đã biến thành cái “ta” mang ý nghĩa khái quát hơn, rộng lớn hơn. Cái chung và cái riêng – cái kỉ niệm và cái ân tình cứ hòa quyện với nhau tạo nên một hồn thơ dạt dào cảm xúc.

Vậy với tư cách là một độc giả đi dạo trên chuyến đò thời gian men theo dòng hoài niệm của Nguyễn Duy, ta có thể khẳng định rằng bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ hay mang đầy giá trị. Cái giá trị ấy là sự kết tinh của dòng cảm xúc sâu lắng và chất triết lí thâm trầm. Bài thơ là sự giao nhau của tâm hồn thi sĩ với tâm sự nghĩa tình của cả một thế hệ. Chúng hòa quyện với nhau tạo nên một tư tưởng triết lí sâu xa.

Qua ba tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”, “Đồng chí”, “Ánh trăng” chúng ta thấy rõ sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng của ba nhà thơ. Ánh trăng không chỉ là ngọn đèn soi sáng giữa đêm tối mập mờ, mà nó còn là người bạn chi kỉ trên suốt chặng đường ta đi. Dù khó khăn, gian khổ, hiểm nguy ánh trăng vẫn là người bạn luôn sánh bước bên ta. Ánh trăng thủy chung, trọn vẹn, nghĩa tình sắt son. Đó là đạo lí đắt giá không chỉ cho thế hệ những người đã qua một thời trận mạc mà còn cho cả một lớp người mai sau.

Bình luận (1)
Thư Soobin
14 tháng 10 2017 lúc 18:54

Đồng chí

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu:

“Đầu súng trăng treo” là câu kết bài thơ Đồng chí. cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.

Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng.

Hai hình ảnh tưởng là đốì lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn.

Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.

Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.

“Đầu súng trăng treo” đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.

Hình ảnh “ánh trăng” của Nguyễn Duy:

Ánh trăng của Nguyễn Duy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ.

Hình ảnh “ánh trăng” bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên.

Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sông tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện, cửa gương... và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.

Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị : thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người.

Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im lặng.

Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp.

Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duv tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.

Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Hiền
Xem chi tiết
Đặng Thị Huyền Trang
30 tháng 10 2017 lúc 18:30

Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phố”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”.
- Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “Thình lình đèn điện tắt” chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối om”. Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỷ niệm nghĩa tình.

Bình luận (1)
Nguyễn Phương Hiền
Xem chi tiết
Ngọc Tiên
Xem chi tiết
Ngọc Tiên
Xem chi tiết
진혜미
Xem chi tiết
Kiều Linh
3 tháng 11 2017 lúc 20:29

Tôi đã được sinh ra và lớn lên ở quê hương. Tuổi thơ tôi gắn liền với những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa, với những hồ bể trong đầy tôm cá. Đối với tôi, đó là những năm tháng tuyệt vời nhất.
Năm tháng cứ trôi đi êm đềm. Rồi một ngày kia, chiến tranh bùng nổ. Để bảo vệ cho Tổ quốc thân yêu, tôi phải rời quê hương để đi lính. Cuộc sống của tôi lúc này đã thay đổi. Tôi dần dần gắn bó với những ngọn núi, với cánh rừng hoang vu sặc mùi bom đạn. Nhưng trong lòng tôi vẫn khắc khoải một nỗi nhớ da diết. Tôi nhớ làng, nhớ gia đình, nhớ lối xóm. Trong những lúc như thế, tôi thường nhìn trăng. Vầng trăng như một người bầu bạn cùng tôi, có thể an ủi, làm nguôi ngoai đi nỗi nhớ quê hương. Trăng chia sẻ cùng tôi biết bao tâm tư tình cảm, bao nỗi nhớ. Trong suốt chặng hành trình gian lao cực khổ, trong cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cây cỏ, vầng trăng mộc mạc như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành và sát cánh bên tôi. Đã có lúc, tôi ngỡ rằng hứa sẽ không và không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy.
Và chiến tranh kết thúc, hòa bình lặp lại. Thoát khỏi cuộc sống bần cùng, nghèo khổ trong chiến tranh là cái khát vọng lớn nhất của những người lính chúng tôi. Vì vậy, tôi về sống ở thành phố, trong một căn phòng buyn-đinh tiện nghi. Cuộc sống ở thành phố rất hiện đại. Đâu đâu cũng có những ánh điện, cửa gương. Dần dà, tôi đã quen cái cuộc sống của thành thị. Và trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi vầng trăng – người bạn tri kỷ của mình. Mỗi tối, trăng đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Xa lạ, không quen, không biết, vầng trăng đã bị tôi – một người bạn thân thiết, gắn bó của một thời – lãng quên.
Rồi một ngày nọ, đèn điện bỗng vụt tắt. Căn phòng trở nên tối om. Theo phản xạ, tôi bèn bật tung cánh cửa sổ để ánh sáng lan vào. Và đập vào mắt tôi là vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi.
Đã bao nhiêu năm qua, trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Chỉ có tôi là đã thay đổi. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ.
Tôi thật sự hối hận vì đã quên trăng. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi cứ nghẹn ngào, nước ở khóe mắt cứ muốn trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi ở suốt chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ.

Bình luận (0)
DUSKY OFFICIAL
Xem chi tiết
Đặng Thị Huyền Trang
5 tháng 11 2017 lúc 20:59

Tôi đã được sinh ra và lớn lên ở quê hương. Tuổi thơ tôi gắn liền với những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa, với những hồ bể trong đầy tôm cá. Đối với tôi, đó là những năm tháng tuyệt vời nhất.
Năm tháng cứ trôi đi êm đềm. Rồi một ngày kia, chiến tranh bùng nổ. Để bảo vệ cho Tổ quốc thân yêu, tôi phải rời quê hương để đi lính. Cuộc sống của tôi lúc này đã thay đổi. Tôi dần dần gắn bó với những ngọn núi, với cánh rừng hoang vu sặc mùi bom đạn. Nhưng trong lòng tôi vẫn khắc khoải một nỗi nhớ da diết. Tôi nhớ làng, nhớ gia đình, nhớ lối xóm. Trong những lúc như thế, tôi thường nhìn trăng. Vầng trăng như một người bầu bạn cùng tôi, có thể an ủi, làm nguôi ngoai đi nỗi nhớ quê hương. Trăng chia sẻ cùng tôi biết bao tâm tư tình cảm, bao nỗi nhớ. Trong suốt chặng hành trình gian lao cực khổ, trong cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cây cỏ, vầng trăng mộc mạc như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành và sát cánh bên tôi. Đã có lúc, tôi ngỡ rằng hứa sẽ không và không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy.
Và chiến tranh kết thúc, hòa bình lặp lại. Thoát khỏi cuộc sống bần cùng, nghèo khổ trong chiến tranh là cái khát vọng lớn nhất của những người lính chúng tôi. Vì vậy, tôi về sống ở thành phố, trong một căn phòng buyn-đinh tiện nghi. Cuộc sống ở thành phố rất hiện đại. Đâu đâu cũng có những ánh điện, cửa gương. Dần dà, tôi đã quen cái cuộc sống của thành thị. Và trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi vầng trăng – người bạn tri kỷ của mình. Mỗi tối, trăng đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Xa lạ, không quen, không biết, vầng trăng đã bị tôi – một người bạn thân thiết, gắn bó của một thời – lãng quên.
Rồi một ngày nọ, đèn điện bỗng vụt tắt. Căn phòng trở nên tối om. Theo phản xạ, tôi bèn bật tung cánh cửa sổ để ánh sáng lan vào. Và đập vào mắt tôi là vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi.
Đã bao nhiêu năm qua, trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Chỉ có tôi là đã thay đổi. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ.
Tôi thật sự hối hận vì đã quên trăng. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi cứ nghẹn ngào, nước ở khóe mắt cứ muốn trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi ở suốt chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ.

Bình luận (0)
Đỗ Ngọc Diệp
26 tháng 12 2018 lúc 21:24

Đối với tôi, vầng trăng như một người bạn tri kỉ. Trăng không kiều diễm, tráng lệ mà hết sức mộc mạc, chân thực, trần trụi giữa thiên nhiên, tươi tắn, hồn nhiên như cây cỏ. Mỗi bước chân tôi đi đều có ánh trăng đồng hành khiến tôi cứ ngỡ rằng trong suốt cuộc đời này tôi sẽ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Cuộc sống có muôn trùng thay đổi, tôi không thể dự đoán được ngày mai sè ra sao?

Thời gian cứ thế trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, và con người không thể kháng cự lại sự thay" đổi đó. Khi đất nước hoà bình, tôi được chuyển về thành phố sống trong căn nhà buyn-đinh với đầy đủ đồ dùng hiện đại. Tôi cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi ánh điện, cửa gương. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi người bạn tri kỉ của mình. Người tri kỉ ấy đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phải chăng vì cuộc sống quá tiện nghi và sung sướng nên tôi đã bỏ lại người bạn đã gắn bó bao năm tháng của mình? Ánh trăng giờ đây đối với tôi chẳng khác nào người dưng qua đường. Bỗng dưng đèn điện tắt, cả căn phòng tối om. Giờ đây tòi mới biết được cảm giác nóng nực và ngột ngạt, dường như không thế thơ nổi, tôi chạy ùa đến bật tung cửa sổ. Thật ngờ ngàng! Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là ánh trăng tròn vành vạnh.

Dường như trăng đã chờ đợi tôi rất lâu, trăng vẫn vẹn nguyên, chẳng có gì thay đổi dẫu cuộc sống có thê nào. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi nghẹn ngào, những giọt nước mắt rưng rưng nơi khoé mắt như muốn trào ra. Những kí ức tuổi thơ và bao đêm ở rừng chợt dội về: trăng vằng vặc trên cánh đồng, bao la trên biển cả, len lỏi giữa những khe lá, kề vai sát cánh bên tôi những lúc buồn te, cô đơn. Ánh trăng im phăng phắc nhìn đáp lại tôi cứ như nhắc nhở về quá khứ xa xăm. Trăng vẫn tròn đầy, vẫn tỏa ánh sáng lung linh như chẳng hề trách giận. Lòng bi tha, tình cảm thủy chung ấy của trăng khiến tôi tự trách bản thân quá tồi tệ, vô tình.

Cuộc sống này sẽ chẳng có gì vui nếu không có tình bạn. Hãy trân trọng những người bạn tốt mà bạn có, bạn nhé!

Bình luận (0)
Vũ Bùi Thanh
Xem chi tiết
nguyenthihab
14 tháng 11 2017 lúc 16:14

chỉ ji bn

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Hiền
Xem chi tiết
Nhóc Cận
19 tháng 11 2017 lúc 22:08

từ rưng chỗ nào bạn

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Hiền
20 tháng 11 2017 lúc 16:19

uk mik chép nhầm r

Bình luận (3)
Tường Vy
7 tháng 5 2019 lúc 17:23

“Rưng rưng” là từ láy gợi lên dòng nước mắt cứ chực trào ra, nghẹn ngào, thổn thức. Nó diễn tả sự xúc động mãnh liệt đến lặng người đi của con người trọng giây phút đối diện với Vầng trăng. Từ giây phút ấy, những kỉ niệm quá khứ ào ạt ùa về

Bình luận (0)