Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Bình Phước , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 99
Số lượng câu trả lời 5480
Điểm GP 821
Điểm SP 3093

Người theo dõi (458)

Huy Jenify
Cao ngocduy Cao
cung kim ngưu
Nguyễn Trà My

Đang theo dõi (22)


Câu trả lời:

Khác với khung cảnh rạo rực, vui tươi vào buổi sớm của tiết thanh minh, buổi chiều Cảnh Ngày Xuân lại được Nguyễn Du khắc họa nhuốm một màu man mác, trầm lắng. Sáu câu thơ cuối trong bài Cảnh ngày xuân vẽ lên một nỗi niềm ưu tư, một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy dụng ý bậc cao của tác giả:

“Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thở thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Không còn những nô nức, hồ hởi như ở đoạn đầu, đến đây giọng thơ lắng xuống, chậm dãi từng khắc như kéo dài ra một nỗi buồn da diết mênh mang, lênh láng đến xót lòng. Trong cái bức tranh buổi chiều man mác ấy có sự đan xen hài hòa của 3 màu sắc hữu tình: đó là thời gian là cảnh vật và không thể thiếu đó là con người.

Nguyễn Du thật khéo léo, tài tình khi mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, xuyến xao thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên:

Tà tà bóng ngả về Tây”

“Tà tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. Một chút chậm rãi, một chút chùng chình như muốn níu lại những khoảnh khắc tươi đẹp cuối cùng còn sót lại của cảnh ngày xuân. Cái nhịp sống chậm rãi, vô tình ấy khiến cho buổi chiều hiện về không mang màu sắc thê lương, buồn tủi, đớn đau quen thuộc như trong văn học cổ.

Những ánh nắng xế chiều buông xuống, khoác lên cảnh vật chiếc áo bảng lảng nỗi buồn:

Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Tác giả đã vận dụng linh hoạt các cảnh vật: ngọn tiểu khê; dòng nước; dịp cầu, ghềnh nước để tô vẽ nên bức tranh cảnh trời chiều. Đây là những cảnh vật đặc sắc, có thể khắc họa được rõ nét nhất dòng chuyển dịch chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,…tất cả như đang ánh lên một nỗi bâng khuâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng.

Hàng loạt các từ láy được đặc tả như: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” làm dịu lại khung cảnh chiều tà; không đìu hiu; héo hắt mà vẫn thanh tao, lãng mạn. Dù nhỏ bé, cô quạnh, lững lờ nhưng vẫn đẹp, vẫn dịu nhẹ đến nao lòng người. Một nét vẽ với gam màu ấm lững lờ làm nức lòng bao lữ khách thanh minh.

Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn. Một vài nét khắc họa lại vẽ được trọn vẹn một bức tranh xế chiều tuyệt đẹp đến thế. Thật huyền diệu và uyên bác biết chừng nào.

Một bức tranh muốn đẹp, muốn có hồn, muốn đậm sâu trong lòng độc giả thi không thể không có nhưng dáng dấp nhỏ bé của con người. Nguyễn Du sâu sắc vô cùng khi vận dụng khéo léo quy luật tả cảnh ngụ tình trong thơ văn xưa cổ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn người có vui đâu bao giờ.” Cảnh vật thời gian như nhuốm màu tâm trạng của lòng người tơ vương:

“Chị em thơ thẩn dang day ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
….
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.”

Nếu như vào tiết trời sáng thanh minh tươi đẹp, dịu mát, căng tràn nhựa sống thì đến đây trời đã về cái cuối chiều, bữa tiệc vui nào cũng đến hồi kết. Con người trở về với cái chốn bình yên, với cái nhịp sống chậm rãi cuối ngày tàn. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi nên lòng người. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về. Hàng loạt các từ láy được đặt liên tiếp cuối mỗi câu thơ: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” như một điệp khúc láy lại, xoáy sâu vào nỗi vô thức của dòng cảm xúc sâu lắng ấy. Một nỗi buồn da diết, miên man, kéo dài man mác.

Cảnh vật tĩnh lặng nhưng lòng người lại chẳng bình yên. Cụm từ “dang tay” được đặt chen ngang giữa dòng thơ như đang cố níu lại, cố tận hương nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại của tiết Thanh minh tháng ba. Và phải chăng “dang tay” như cái ôm sẻ chia, cái ôm đồng cảm với nỗi niềm dạt dào của hai chị em Kiều.

Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp, thật hòa quyện, khe khẽ sầu cay.

Đoạn thơ tuy ngắn nhưng lại được tác giả đầu tư công phu nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại lại đậm chất thi vị. Nhịp thơ như dòng trôi nhẹ nhàng, lững lờ với các thanh trắc đan xen, nối nhau liên tiếp. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cổ điển đặc sắc. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc; âm thanh; và cả hồn người lay động. Một bức tranh chân thực nhưng lại ý nghĩa, tâm trạng vô ngần. Bức vẽ cũng như cánh cửa mở ra những dự cảm bất lành, chông chênh trong cuộc đời Kiều về sau này.

Hội xuân kết thúc cũng là lúc Kiều trở về với cuộc sống như ngày thường? Nhưng liệu rằng Kiều có còn được “bình yên sống trọn một kiếp người” trốn khuê các? Liệu rằng cuộc sống của Kiều có êm đềm, tươi đẹp như sắc tài của nàng. Bức tranh Cảnh ngày xuân đặc biệt là sáu câu thơ cuối đã hé lộ phần nào cuộc đời của người con gái sắc sảo ấy. Những câu thơ như làm dậy lại một nỗi niềm xưa cũ đầy bâng khuâng luyến lưu đầy dư vị.

Câu trả lời:

Dàn ý Cảm nhận 6 câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân

I. Mở bài

- Giới thiệu đoạn trích Cảnh ngày xuân

+ Đoạn trích này được viết sau đoạn tả tài sắc của chị em Thúy Kiều.

+ Đoạn trích là bức tranh mùa xuân đầy rực rỡ, sinh động với không khí náo nhiệt của những ngày lễ hội đầu năm.

- Giới thiệu sáu câu thơ cuối: tâm trạng luyến tiếc, trầm buồn của chị em Thúy Kiều và cảnh xuân trong ánh chiều tà.

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

II. Thân bài

1. Khái quát về đoạn trích Cảnh ngày xuân:

- Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh mùa xuân đẹp với một không khí lễ hội rộn ràng và tưng bừng.

- Cảnh mùa xuân được Nguyễn Du tả theo trình tự không gian và thời gian.

+ Bức tranh chiều xuân:

Nên thơ, đượm buồn với cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về. Bức tranh buổi chiều được miêu tả với nét đẹp dịu dàng, thanh nhẹ, nhuốm màu tâm trạng. Bút pháp: tả cảnh ngụ tình.

⇒ Gợi lên tâm trạng tiếc nuối, luyến tiếc, thơ thẩn của chị em Kiều.

+ Hình ảnh chị em Thúy Kiều ra về sau ngày du xuân

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

- Nghệ thuật:

+ Từ láy: “tà tà” gợi ra hình ảnh trời chiều, sự vận động chậm rãi như muốn níu kéo thêm khoảnh khắc tươi đẹp của lễ hội.

+ Từ “thơ thẩn” gợi trạng thái vô thức đầy vẻ tiếc nuối.

+ Không gian lúc chiều tà

Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

=> Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang.

+ Cảnh vật dường như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng.

+ Không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn.

+ Cảm giác bâng khuâng khó tả của con người.

- Nghệ thuật:

+ Từ láy “Nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh”: mang cảm giác phảng phất buồn của cảnh vật và tâm trạng con người.

+ Từ láy “Thơ thẩn”: sự bần thần, tiếc nuối, lặng buồn.

⇒ Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đã tàn.

⇒ Vẻ đẹp tâm hồn của những nam thanh nữ tú tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.

III. Kết bài

- Nội dung: Tâm trạng tiếc nuối, quyến luyến, thơ thẩn của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.

- Nghệ thuật: Sử dụng bút pháp cổ điển tả cảnh ngụ tình.

Câu trả lời:

Các kiểu câu – Lớp 8 HKII. Hệ thống hóa các kiểu câu

TT

Kiểu câu

Chức năng chính

– Ví dụ

Chức năng khác – Ví dụ

Đặc điểm hình thức

1

Nghi vấn

Dùng để hỏi

Vd: Bạn làm gì đấy ?

- Khẳng định Vd: Nam mà không giỏi à ?

- Phủ định Vd: Nam mà giỏi à ?

- Mỉa mai Vd: Các em giỏi gớm nhỉ ?

- Cầu khiến Vd: Cho tớ mượn bút đượcchứ?

- Bộc lộ tình cảm cảm xúc

Vd: Những người muôn năm cũ,

Hồn ở đâu bây giờ?

- Đe dọa Vd: Mày muốn chết hả?

- Khi viết kêt thúc bằng dấu chấm hỏi

- Có từ nghi vấn, gồm:

+ Các đại từ nghi vấn: Ai, gì, nào, đâu, bao nhiêu, bao giờ, sao, tại sao, như thế nào....

+ Tình thái từ nghi vấn: à, ư, nhỉ, chăng, chứ, hả...

+ Các cặp từ: đã...chưa, có...không..., có phải ... không

+ Quan hệ từ “hay” “hoặc”dùng để nối các vế có quan hệ lựa chọn

2

Cầu khiến

Chức năng chính : Dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo...

Không có

*Khi viết câu CK thường kết thúc bằng dấu chấm than. Nhưng khi ý cầu khiến không nhấn mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm.

*Thường có các từ CK như: hãy, đừng, chớ, đi, thôi, nào, hè...hay ngữ điệu CK. Trọng tâm của mệnh lệnh yêu cầu đề nghị rơi vào các động từ.

*Tùy hoàn cảnh câu CK có ngữ điệu khác nhau (dứt khoát, nghiêm nghị, năn nỉ...) cũng có khi câu CK không có các phụ từ trước và sau động từ, trong trường hợp này ngữ điệu được sử dụng để thể hiện ý CK và thái độ của người nói với người nghe.

Lưu ý: Câu CK có thể là một câu tỉnh lược nhưng không phải hoàn cảnh nào cũng sử dụng kiểu câu này.

3

Cảm thán

Để bộc lộ cảm xúc trực tiếp của người nói (viết)

xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ nói hàng ngày hay trong ngôn ngữ văn chương.

-Khi viết câu CT thường kết thúc bằng dấu chấm than

- Thường có các từ cảm thán như: ôi, than ôi, hỡi ôi, hỡi ơi, chao ôi, trời ơi, chao ơi, thay, biết bao, xiết bao, biết chừng nào.

4

Trần thuật

Dùng để kể, thông báo, nhận định, miêu tả, ...

Dùng nhận định, giới thiệu, hứa hẹn, cầu khiến, bộc lộ cảm xúc, hỏi, ...

Lưu ý: Cần phân biệt một số câu TT có sử dụng từ nghi vấn, từ cầu khiến , dấu chấm than)

*Khi viết câu TT thường kết thúc bằng dấu chấm. Đôi khi câu TT kết thúc bằng dấu chấm than, chấm lửng

*Câu TT được dùng phổ biến nhất trong giao tiếp và tạo lập văn bản

5

Câu phủ định

- Thông báo xác nhận không có sự vật sự việc tính chất quan hệ nào đó (PĐMTả).

- Phản bác một ý kiến, một nhận định

(PĐBBác)

VD: Tôi không ăn cơm.

VD: Lá rớt rơi nhiều đâu phải bởi mùa thu.

- Thường có các từ phủ định như: không, chưa, chẳng, chả, không phải (là) , chẳng phải (là), đâu có phải là, đâu có..., đâu có phải....

Câu trả lời:

Nguyễn Dữ là một nhà văn thành công với thể loại truyền kì khi ông nói đến những chuyện kì ảo được lưu truyền trong dân gian. Và đặc biệt là tác phẩm “Truyền kì mạn lục" đã tạo nên một thiên cổ tùy bút ra đời trong nửa đầu thế kỉ XVI. Trong đó tiêu biểu là Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cùng vẻ đẹp nhân vật Ngô Tử Văn.

Ngay từ đầu tiên tác giả đã đưa người đọc đến với một nhân vật miêu tả một cách trực tiếp. Tên là Soạn quê ở huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta thường khen là một người cương trực. Lời giới thiệu ngắn gọn, trực tiếp theo kiểu truyền thống nhưng cũng phần nào giúp ta hiểu rõ tính cách nhân vật.

Ngô Tử Văn còn là người có hành động giúp dân trừ bạo mà đốt đền. Bởi trong làng có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thanh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn tức quá một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Đó là một tinh thần khẳng khái, cương trực, hành động vì dân trừ bạo với tinh thần dân tộc diệt trừ hồn ma tên giặc xâm lược. Hành động đốt đền thể hiện rõ con người Ngô Tử Văn. Trước khi đốt đền thì tắm gội sạch sẽ, khấn trời hành động trang nghiêm tôn trọng thần linh. Sau khi đốt đền thì “vung tay không cần gì cả” hành động không phải là liều lĩnh nhất thời, cũng không phải vì danh lợi mà vì nghĩa vong thân.

Là một người liều lĩnh nên khi đốt đền xong Ngô Tử Văn không suy nghĩ quá nhiều. Lúc đó tình thế của chàng bị hồn ma Bách hộ họ Thôi một người khôi ngô, cao lớn xưng là cư sĩ đòi dung trả đền nhưng Tử Văn vẫn mặc kệ vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Đó là hành động tin tưởng vào chính nghĩa vào những việc mình đã làm. Sau đó thổ công một ông già áo vải mũ đen phong độ nhàn nhã tính khiêm tốn khiến Ngô Tử Văn ngạc nhiên “sao nhiều thần quá vậy”. Khi thổ công kể rõ sự tình thì chàng lại muốn kiện Diêm Vương. Vẫn là sự tin tưởng vào công lí và chính nghĩa.

Là một người cương trực nên Tử Văn không hề sợ điều gì và đã có vụ sử kiện ở dưới âm phủ vì hồn ma tướng giặc kiện Ngô Tử Văn đốt đền. Tướng giặc đã giả mạo thổ thần, làm hại dân, qua mặt Diêm Vương. Tướng giặc vẫn tồn tại vì các thần ở những đền miếu lân cận ăn của đút nên bao che cho kẻ ác, vì các phán quan Diêm Vương chưa làm hết trách nhiệm, không theo sát thực tế. Hồn ma kiện Tử Văn ở Minh ti làm Diêm Vương quát mắng Tử Văn, bênh vực hồn ma nhưng Tử Văn không hề run sợ cứng cỏi minh oan cho mình. Lần hai hắn đổi giọng nhân nghĩa làm Diêm vương cử người đến đền Tản viên lấy chứng cứ thì Tử Văn rất thông minh khi yêu cầu đính thân Diêm Vương đến đền để xác minh. Và cuối cùng công lí đã chiến thắng cái ác khi hồn ma bị giam nhốt vào ngục Cửu U Diêm Vương đã mắng trừng phạt hồn ma và ban thưởng cho Tử Văn. Chính hành động trượng nghĩa ấy đã giúp Tử Văn không những không bị nghi oan mà còn được thưởng đó là việc được sống trở lại, ban thưởng xôi lợn và được nhận chức phán sử đền Tản Viên. Phán xử là chức quan xem xét về các vụ kiện tụng, giúp việc cho người xử án chức quan thực hiện công lí. Ngô Tử Văn xứng đáng được nhận chức quan này vì chàng là người dân chủ, dám bảo vệ đến cùng công lí, chính nghĩa. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự thưởng công xứng đáng, khẳng định chân lí sẽ chiến thắng tà ác và thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Công bằng và hạnh phúc chỉ đến khi người chính trực biết đấu tranh với cái xấu, cái ác sự tà gian.

Truyện với cách xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn giàu kịch tính kết hợp yếu tố kì ảo cùng nghệ thuật tương phản xuyên suốt. Qua hình tượng Tử Văn tác phẩm ca ngợi chính nghĩa, tinh thần quyết liệt tà gian. Ngụ ý phê phán gắn liền với tâm sự thời thế của nhà văn, bài học nhân sinh cùng niềm tin vào lẽ phải tin vào điều đúng đắn phải có bản lĩnh chống lại cái gian tà trong cuộc chiến cam go.

Đọc xong tác phẩm mà đã để lại trong lòng người đọc bài học sâu sắc trong cuộc sống phải tin vào lẽ phải vào chính nghĩa và có tinh thần đứng lên đấu tranh. Hãy tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.

Câu trả lời:

Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật Ngô Tử Văn

I. Mở bài:

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn + Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể về Ngô Tử Văn - người vốn khảng khái, nóng nảy,thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Mọi người vẫn thường khen Văn là người cương trực.

II. Thân bài:

Ở làng Tử Văn sống trước có một ngôi đền linh ứng nhưng giờ đã thành ngôi đền có hồn của tên giặc xâm lược tử trận gần đó làm yêu quái trong dân gian. Trước sự việc ngôi đền bị uế tạp và yêu quái có thể làm hại dân, “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Sự khẳng khái, nóng nảy của Tử Văn đã dẫn đến một hành động dũng cảm vì dân trừ hại. Sự tức giận của Tử Văn không phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi người dân đang bị yêu quái quấy nhiễu -> Vì thế mà việc làm của Tử Văn là đáng ca ngợi. Sau khi đốt ngôi đền, Tử Văn ốm nặng rồi “thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành vế phía đông”. Lúc ở chốn âm cung, do chỉ nghe bên nguyên, Diêm Vương - vị quan toà xử kiện - người cầm cán cân công lí – cũng đã có lúc tỏ ra mơ hồ. Khi đứng trước công đường Ngô Tử Văn càng tỏ ra mình là người có khí phách. Chàng không chỉ khẳng định: "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian” mà còn dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà với lời lẽ “rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Từng bước, từng bước Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, cuối cùng đã hoàn toàn đánh gục tên tướng giặc. Sau khi được minh oan ở minh ti, Tử Văn trở về nhà chưa được 1 tháng thì Thổ công đến bảo Tử Văn nên nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên. Thổ công nói: "người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau” và khuyên Văn nên nhận.Thế là Văn vui vẻ nhận lời. Việc được nhận chức ở đền Tản Viên đã nói lên thắng lợi của chàng trong cuộc đấu tranh với tên hung thần xảo quyệt. Sự thắng lợi này đã khẳng định chàng là người tốt, chính nghĩa, dám đấu tranh để thực hiện công lí. Con người của chính nghĩa đã được đứng ra để thực hiện công lý là một thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà.

III. Kết bài:

Câu chuyện đề cao nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho tầng lớp trí thức nước Việt giàu tinh thần dân tộc, chuộng chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Truyện còn thể hiện niềm tin công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà.

Câu trả lời:

Truyện "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" là một trong 20 truyện của "Truyền Kì Mạn Lục" của tác giả Nguyễn Dữ, truyện để cao tinh thần khẳng khái, cương trực và dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn - đại biểu của tri thức Việt Nam. Ở đoạn kết truyện tác giả đã khẳng định niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định chiến thắng gian tà, đặc biệt lời bình cuối truyện còn cho người đọc hiểu được đã là kẻ sĩ thì phải biết đấu tranh đến cùng để chống lại cái xấu, cái ác, có đấu tranh dũng cảm mới đem lại chiến thắng cho chính nghĩa.

Nhân vật chính trong truyện chính là, Ngô Tử Văn, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật này là một con người với phẩm chất cao đẹp: cương trực, khảng khái, kiên quyết đấu tranh trừ hại cho dân, một mình chàng đã đốt đền và đương đầu với hồn ma tên tướng giặc, cho dù phải xuống tận âm phủ gặp Diêm Vương Ngô Tử Văn vẫn gan dạ, quyết liệt kêu oan. Tử Văn biết rõ đúng sai và tin tưởng vào chính kiến của mình, chính vì vậy mà dù bị hù dọa nơi âm phủ chàng cũng không hề khiếp sợ, nản chí hay rụt rè. Kết thúc phần xét xử của Diêm Vương, sau khi đi điều tra mọi việc trên trần thế đúng như lời Tử Văn nói nên Tử Văn đã được Diêm Vương xử thắng kiện, điều đó đã khẳng định một quy luật tất yếu: thiện nghĩa chắc chắn chiến thắng gian tà. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi đã bị trừng trị thích đáng, cuộc sống người dân được yên ổn, bình an, Thổ công đã được trả lại đền. Bằng chính nghĩa và sự dũng cảm, cương quyết đấu tranh, cuối cùng Tử Văn đã chiến thắng, không những thế chàng còn Diêm Vương ban thưởng hậu hĩnh "từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa, và sai lính đưa Tử Văn về", phần thưởng của Diêm Vương chính là minh chứng cho tính chính nghĩa của công lý, người đại diện cho công lý đã đứng về lẽ phải và công nhận hành động dũng cảm của kẻ sĩ. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ còn xây dựng chi tiết kì ảo Tử Văn được sống lại làm người chính mang ý nghĩa duy trì sự tồn tại của một kẻ sĩ có phí khách hiên ngang, tinh thần khẳng khái trên cõi trần, sự có mặt của Tử Văn sẽ mang ý nghĩa như một người bảo hộ cho sự bình an, công bằng cho nhân dân.

Tử văn được sống lại sau hai ngày chết trên dương thế là ý của Diêm Vương, nhưng việc chàng được đề cử vào chức phán sự đền Tản Viên là do Thổ công biết ơn Tử Văn, hết lòng xin cho "Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân Phán sự, không có người lo việc. Lão với nhà thầy đã biết nhau nên đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa". Đây là việc làm trả ơn của Thổ công đối với Tử Văn, nhờ có Tử Văn mà Thổ công mới được trở lại cai quản ngôi đền bị hồn ma cướp. Để nhận chức quan phán sự nghĩa là Tử Văn phải chết, Thổ công đã khuyên Tử Văn "Người ta sống ở đời, xưa nay ai không phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau là đủ rồi". Tử Văn đã chấp nhận lời đề nghị đó, nhưng không phải vì hám danh lợi mà là vì chàng biết với chức danh phán sự chàng sẽ có cơ hội mang lại công lí, chính nghĩa cho nhân dân, cho cuộc đời, đó cũng là cách mà tác giả bất tử hóa hình tượng con người cương trực, khảng khái, chi tiết kì ảo "cưỡi gió mà đi biến mất" vừa là lời ngợi ca lại vừa thể hiện ước mơ công lí của Nguyễn Dữ.

Như vậy, đoạn kết truyện đã thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc đó là ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão, bên cạnh đó, lời bình của Nguyễn Dữ ở cuối truyện đã thể hiện lòng cảm phục và thái độ ngợi ca với kẻ sĩ như Ngô Tử Văn. "Than ôi! Người ta vẫn nói: "Cứng quá thì gãy". Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc trời.". Theo Nguyễn Dữ, làm người sống trên đời không sợ "cứng quá thì gãy" mà chỉ sợ không thể cứng được, tác giả đề cao sự cứng cỏi, cương quyết và khảng khái trong nhân cách kẻ sĩ "Vậy là kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi".

Có thể nhận định rằng, sức hấp dẫn của "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" chính nằm ở đoạn kết và lời bình cuối truyện, đoạn kết truyện tác giả Nguyễn Dữ không chỉ làm người đọc hài lòng với kết thúc có hậu đầy nhân văn và triết lí dân gian, mà còn đưa ra lời bình để người đọc cũng ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về phẩm chất và nhân cách của kẻ sĩ.

Câu trả lời:

Trong diễn biến cốt truyện của mỗi câu chuyện, kết thúc là phần có vị trí khá quan trọng, mang nhiều ý nghĩa, thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn. Với đoạn kết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và lời bình cuối truyện chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó.

Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên nổi bật nhân vật Ngô Tử Văn - một con người khảng khái, cương trực, kiên quyết đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Một mình chàng dám đương đầu với hồn ma tên tướng giặc, và dù phải xuống tận Minh ti, chàng vẫn không hề sợ hãi, rút lui. Diêm Vương công minh đã suy xét kỹ lưỡng mọi việc, xử đúng người đúng tội, giải oan cho Tử Văn. Truyện kết thúc bằng nhiều chi tiết li kì, hấp dẫn, giàu ý nghĩa. Sau khi trừng phạt hồn ma tướng giặc họ Thôi, Diêm Vương đã ban thưởng Tử Văn khá hậu hĩnh: Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa và sai lính đưa Tử Văn về. Chi tiết này khắc hoạ thêm một lần nữa sự công minh của Diêm Vương. Việc ban thưởng cho Tử Văn chứng tỏ Diêm Vương đứng về lẽ phải, có thiện chí đối với hành động dũng cảm của kẻ sĩ. Cho Tử Văn được trở lại làm người, có lẽ Diêm Vương không chỉ muốn trả lại sự công bằng cho chàng mà còn muốn duy trì sự tồn tại của khí phách hiên ngang, dũng cảm, của tinh thần khẳng khái trên cõi trần. Tử Văn sẽ là sứ giả mang lại sự yên bình cho nhân dân chốn dương gian.

Việc Tử Văn được sống lại là phán quyết của Diêm Vương nhưng việc chàng được giới thiệu, đề cử vào chức phán sự đền Tản Viên là do Thổ công hết lòng xin cho: Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân phán sự, lão đã vì nhà thầy mà hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Hành động của Thổ công là hành động trả nghĩa Tử Văn. Nhờ chàng mà vị thần này được trở lại cai quản ngôi đền vốn bị hồn ma tướng giặc họ Thôi cướp mất. Nhận chức quan phán sự, Tử Văn sẽ phải chết, nhưng Thổ công khuyên rằng: Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau. Tất nhiên, một người như Tử Văn có lẽ không vì danh tiếng mà hám chức danh đó. Lý do chính yếu khiến chàng ưng thuận lời đề nghị của Thổ công là với chức phán sự, chàng sẽ có cơ hội mang lại công lí, chính nghĩa cho cuộc đời. Hơn nữa, để Tử Văn nhận chức phán sự cũng là cách Nguyễn Dữ bất tử hoá hình tượng con người cương trực, khảng khái. Chẳng thế mà sau khi Tử Văn chết rồi, có người còn nhìn thấy chàng ngồi trên xe, cưỡi gió mà biến mất. Những người như Tử Văn không thể chết mà phải sống mãi mãi để cuộc đời này được yên ổn, để mọi điều ta chướng bị tiễu trừ. Chi tiết kì ảo được Nguyễn Dữ xây dựng vừa thể hiện thái độ- ngợi ca, vừa thể hiện ước mơ công lí của nhà văn.

Kết thúc Chuyện chức phán sự đền Tản Viên thể hiện một cách sâu sắc triết lí dân gian ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, gieo gió gặt bão. Kẻ gian trá, xấu xa như hồn ma tướng giặc họ Thôi đã phải chịu tội còn người cương trực, khẳng khái như Ngô Tử Văn xứng đáng được muôn đời ngợi ca. Lòng cảm phục và thái độ ngợi ca của Nguyễn Dữ đã được thể hiện một cách trực tiếp trong lời bình ngay sau kết thúc truyện. Theo ông, con người sống trên đời không sợ “cứng quá thì gãy” mà chỉ sợ không thể cứng được. Ngô Tử Văn một kẻ sĩ nước Vỉệt là người đã luôn giữ cho mình sự cứng cỏi để vượt qua mọi thế lực phi nghĩa. Cũng từ nhân vật này, người đọc có thể thấy Nguyễn Dữ rất đề cao sự cứng cỏi trong nhân cách kẻ sĩ. Thực ra đã là trí thức thì cần rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Quan niệm của Nguyễn Dữ về nhân cách kẻ sĩ không phải không đúng nhưng có lẽ chưa đầy đủ, trọn vẹn. Nếu kẻ sĩ lức nào cũng cứng quá thì chắc chắn cũng sẽ cổ lúc phải gãy.

Có khi sức hấp dẫn của những câu chuyện lại ở kết thúc giàu ý nghĩa. Viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ không chỉ làm người đọc hài lòng bởi một kết thúc có hậu mà còn khiến chúng ta phải có những giây phút lắng lại để chiêm nghiệm về ý nghĩa của kết thúc đó.

Câu trả lời:

Ngòi bút Nguyễn Du tài tình khi khắc họa những nhân vật trong Truyện Kiều luôn chân thật, sống động, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhân vật vừa có nét chung, vừa có nét riêng nổi bật, đặc biệt là về tâm lý, tính cách. Chỉ cần một lời thơ cô đọng, tác giả đã làm lộ ngay thần thái của nhân vật. Đoạn Chí khí anh hùng- Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, giã từ Thúy Kiều - đã thể hiện sắc nét nghệ thuật miêu tả nhân vật đó của Nguyễn Du.

Từ Hải đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chỉ là mục đích cao để hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích. Ở con người Từ Hải, nỗi khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một sức mạnh của thiên nhiên, không gì có thể kiềm chế nổi. Từ Hải đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa, chợt động lòng bốn phương. Thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời bể mênh mang và lập tức ở vào tư thế một mình với thanh gươm yên ngựa sẵn sàng lên đường. Động lòng bốn phương là "động bụng nghĩ đến bốn phương" (Tản Đà). Nói cụ thể hơn là thấy trong lòng cái chí tung hoành ở bốn phương đang thúc giục, kêu gọi. Chỉ hai câu đầu, ta thấy Từ Hải không phải là con người tầm thường, mà có tâm chí của bậc hào kiệt Không gian trong câu 3, 4 (trời bể mênh mang, lên đường thẳng rong) thể hiện chí khí anh hùng của Từ Hải: lên đường, một mình một ngựa, một thanh gươm!

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt thể hiện rõ tính cách của nhân vật anh hùng này. Từ Hải là con người của sự nghiệp phi thường, không thể đắm mình mãi chốn khuê phòng. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, Từ Hải thoắt đã động lòng bốn phương, tiếng gọi của sự nghiệp đã thức tỉnh chàng. Giờ đây sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, sự nghiệp chẳng những là ý nghĩa của sự sống, mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỷ gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy nên không chút bịn rịn, không có những lời than vãn lúc chia biệt. Thêm nữa, trong lời trách người tri kỷ chưa thoát khỏi thường tình nhi nữ, còn bao hàm cái ý khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để làm vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Kiều (Cánh hồng bay bổng tuyệt vời - Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm) không chỉ có sự mong chờ người yêu xa cách, mà còn mong chờ cả sự nghiệp của Từ Hải.

Con người rất tự chủ và tự tin. Trước đây, ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc trong tay. Giờ đây xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, Từ Hải đã khẳng định, muộn thì cũng không quá một năm, sẽ nhất định trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Trong đoạn trích này, qua từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật miêu tả của tác giả, Từ Hải hiện ra với tính cách của con người phi thường.

Trượng phu là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt nói những quyết định dứt khoát của Từ Hải. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chữ dứt áo trong câu Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách con người phi thường lúc chia biệt: người ở nắm áo, nhưng người đi cứ dứt áo ra đi.

Mặt khác, Từ Hải là con người phi thường, nên lúc ra đi cũng không thể ra đi như mọi người. Hơn nữa, hình ảnh Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi cho thấy chí lớn của một bậc hào kiệt. Từ Hải ra đi chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng vẫn cả quyết ngày trở về sẽ có mười vạn tinh binh. Làm thế nào mà có được như thế, Từ Hải không nói, nhưng Kiều thì tin và người đọc cũng không thấy phải băn khoăn.

Nguyễn Du đã thành công trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật miêu tả theo khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng lý tưởng, phi thường với những nét thật cụ thể, sinh động.

Câu trả lời:

Dàn ý phân tích nhân vật Từ Hải trong Chí khí anh hùng

I. Mở bài:

- Giới thiệu nhân vật Từ Hải.

II. Thân bài:

* Bối cảnh cuộc gặp gỡ của Từ Hải - Thúy Kiều: (Tự tìm hiểu)

* Chí khí anh hùng của Từ Hải:

- "Nửa năm hương lửa đương nồng/Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương": Không cam chịu cuộc sống ấm êm, giản dị mà quyết tâm để lại sau lưng tình riêng ra đi làm nghiệp lớn.

- Hành động ra đi mạnh mẽ, quyết liệt của Từ Hải lại được thể hiện rất rõ ở những câu thơ "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" và "Quyết lời dứt áo ra đi". Tác giả lựa chọn sử dụng một loạt những từ ngữ "thẳng rong" tức là đi liền một mạch, "quyết lời", "dứt áo" thể hiện hành động nhanh chóng, mạnh mẽ, dứt khoát, không chút lưu luyến, bịn rịn. Từ đó thấy được khí phách mạnh mẽ của bậc đại trượng phu.

- "Từ rằng: Tâm phúc tương tri/Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình": Lời trách, nhưng đồng thời cũng là lời động viên Thúy Kiều rằng hãy cố gắng vượt ra khỏi cái suy nghĩ của bậc nữ nhi thường tình để trở thành phu nhân của một bậc anh hùng cái thế, có công danh sự nghiệp hiển hách, thể hiện ý thức của Từ Hải về sự hơn đời, hơn người của bản thân mình.

- "Bao giờ... nghi gia": Lời động viên ngầm của Từ Hải là lời ước hẹn của Từ Hải với Thúy Kiều.

- "Bằng nay bốn bể không nhà/Theo càng thêm bận biết là đi đâu": An ủi, lo lắng, giải thích cho Thúy Kiều để nàng an lòng ở lại. Đồng thời ở hai câu thơ này ta còn lờ mờ nhận ra đằng sau nó là sự cô đơn, lạc lõng của Từ Hải trong giây phút bắt đầu gây dựng công danh sự nghiệp.

- Các hình ảnh "bốn phương", "trời bể mênh mang", "bốn bể", "gió mây", "dặm khơi", hình ảnh cánh chim "bằng". Đây đều là những hình ảnh gợi ra bối cảnh không gian khoáng đạt rộng lớn, góp phần nâng tầm vóc của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí Từ Hải lên sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ. Bên cạnh đó còn thể hiện chí lớn của người anh hùng khao khát được vẫy vùng, tùng hoành trong bốn bể.

III. Kết bài:

- Nêu tổng kết nội dung và nghệ thuật.

Câu trả lời:

Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.

Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…

Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam - Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.

Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.

Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam - Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”

Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!...” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):

“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.

Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:

“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”

Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”

Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:

“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.

Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:

“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”

Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:

“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.

Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.

Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.