Nội dung lý thuyết
- Đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng đã góp phấn tạo nên một nền văn học thống nhất trên đất nước ta.
- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ kéo dài suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới đời sống vật chất và tinh thần của toàn dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật, tạo nên ở văn học giai đoạn này những đặc điểm và tính chất riêng của một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và vô cùng ác liệt.
- Nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển. Về văn hoá, từ năm 1945 đến năm 1975, điều kiện giao lưu bị hạn chế, nước ta chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hoá các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Trung Quốc,...).
a) Chặng đường từ năm 1945 đến 1954
- Một số tác phẩm trong những năm 1945 - 1946 đã phản ánh được không khí hồ hởi, vui sướng đặc biệt của nhân dân ta khi đất nước vừa giành độc lập.
- Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến: tập trung khám phá sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
- Truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm tiểu biểu là: Một lần tới Thủ đô và Trận phố Ràng của Trần Đăng, Đôi Nam và Nhật kí Ở rừng của Nam Cao, Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,... Từ năm 1950, đã xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn ĐÌnh Thi, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,...
- Thơ ca những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tiêu biểu là những tác phẩm: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng Giêng, Lên núi của Hồ Chí Minh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Đồng chí của Chính Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu...
- Một số vở kịch xuất hiện gây được sự chú ý lúc bấy giờ như: Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hoà của Học Phi.
b) Chặng đường từ năm 1955 đến 1964
- Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Một số tác phẩm khai thác đề tài kháng chiến chống Pháp: Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm. Một số tác phẩm khai thác đề tài hiện thực đời sống trước Cách mạng tháng Tám: Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Vỡ bờ (hai tập) của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển (bốn tập) của Nguyên Hồng. Viết về đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: Sông đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,...
- Thơ ca phát triển mạnh mẽ. Các tập thơ xuất sắc ở chặng này gồm có: Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa của Huy Cận, Tiếng sóng của Tế Hanh,...
- Kịch nói ở giai đoạn này cũng phát triển. Tiêu biểu là các vở: Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Chị nhàn và nổi gió của Đào Hồng Cẩm,...
c) Chặng đường từ 1965 đến 1975
- Từ 1965 đến 1975, một cao trào sáng tác viết về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ trong cả nước được phát động. Chủ đề bao trùm của văn học là Đề cao tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Văn xuôi chặng đường này tập trung phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động, đã khắc hoạ khá thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất khuất.
+ Từ tiền tuyến lớn, nhưng tác phẩm truyện, kí viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Hòn đất của Anh Đức, Mẫn và tôi của Phan Bốn,...
+ Ở miền Bắc, truyện, kí cũng phát triển mạnh. Tiêu biểu là kí chống Mĩ của Nguyễn Tuân; truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Đỗ Chu,... Nhiều tác giả nổi lên nhờ những cuốn tiểu thuyết như Hữu Mai với Vùng trời (3 tập), Nguyễn Minh Châu với Cửa sông và Dấu chân người lính, Chu Văn với Bão biển (2 tập),...
- Thơ những năm chống Mĩ cứu nước đạt được những thành tựu xuất sắc, thực sự là một bước tiến mới của nền thơ hiện đại. Thơ ca chặng đường này thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực; đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận. Nhiều tập thơ có tiếng vang, tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn như: Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường - Chim báo bão và những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió lào cát trắng của Xuân Quỳnh, Hương cây - Bếp lửa của Lưu Quang Vũ, và Bằng Việt, Cát trắng của Nguyễn Duy, Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,... Lịch sử thơ ca chặng đường này đặc biệt ghi nhận sự xuất hiện và đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa,...
- Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Các vở kịch gây được tiếng vang: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,...
d) Văn học vùng tạm chiến
- Từ năm 1954 đến năm 1975, ở miền Nam, trong vùng dịch chiếm đóng luôn luôn có phong trào đấu tranh của nhân dân dưới hình thức hợp pháp hoặc bất hợp pháp theo khuynh hướng dân tộc, dân chủ. Đó là cơ sở để hình thành và phân hoá các xu hướng văn học khác nhau trong vùng dịch tạm chiếm mà chủ yếu là ở đô thị miền Nam từ năm 1946 đến năm 1975.
- Dưới chế độ Mĩ và chính quyền Sài Gòn, nhiều xu hướng văn học tiêu cực, phản động tồn tại đan xen nhau: xu hướng "chống cộng", xu hướng đồi truỵ,...
- Hình thức văn học tiến bộ, yêu nước tuy bị đàn áp nhưng vẫn tồn tại. Hình thức thể loại sáng tác này thường gọn nhẹ: thơ, truyện ngắn, phóng sự, kí. Nội dung tư tưởng nói chung đều nhằm phủ định chế độ bất công và tàn bạo; lên án bọn cướp nước và bán nước; thức tỉnh lòng yêu nước và ý thức dân tộc; kêu gọi, cổ vũ các tần lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, tập hợp lực lượng xuống đường đấu tranh.
- Mùa hè năm 1965, chính quyền Mĩ tiến hành chiến tranh cục bộ thì tinh thần của tầng lớp tri thức, văn nghệ sĩ được khơi dậy mạnh mẽ. Chính quyền Sài Gòn càng đàn áp thì cu hướng văn học tiến bộ, yêu nước càng phát triển. Đội ngũ các nhà văn được bổ sung nhiều cây bút trẻ, phần lớn là học sinh, sinh viên chưa có kinh nghiệm nghề nhưng đầy nhiệt tình yêu nước và có trình độ văn hoá cao.
a) Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của đất nước
- Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Đây là một đặc điểm nói lên bản chất của văn học giai đoạn từ 1945 đến năm 1975.
- Từ 1954 - 1975 tập trung vào đề tài: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học, từ thơ ca, truyện, kí đến nghệ thuật sân khấu, đều tập trung khia thác xung đột mâu thuẫn giữa ta và địch; đặt lợi ích của Tổ quốc, của toàn dân tộc lên trên hết. Nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang và thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến,...
- Tổ quốc trở thành niềm cảm hứng lớn, một đề tài chủ yếu xuyên suốt trong bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm,...; trong truyện ngắn của Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng và trong tiểu thuyết của Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu,...
- Chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn của văn học Việt Nam từ 1945 đến năm 1975:
+ Miền Bắc giải phóng, sau mấy năm hàn gắn vết thương chiến tranh đã bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Trung tâm chú ý của các nhà văn là hình ảnh con người mới, là mối quan hệ giữa những người lao động, là sự hoà hợp giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và tập thể.
+ Văn học giai đoạn này đề cao lao động, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Lao động cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng trên mặt trận sản xuất và xây dựng đất nước. Những tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Đào Vũ, Chu Văn, những bài thơ của Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông,... là những sáng tác tiêu biểu.
=> Có thể coi văn học như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại của đất nước và cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975.
b) Nền văn học hướng về đại chúng
- Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đây là một đặc điểm thể hiện khuynh hướng thẩm mĩ của văn học Việt Nam những năm 1945 - 1975. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng của văn học giai đoạn này.
+ Khuynh hướng sử thi thể hiện ở những phương diện sau: đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc. Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng của cộng đồng là lợi ích và khát vọng cá nhân. Con người chủ yếu là được khám phá ở bộn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống và tình cảm lớn. Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu gợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hứng.
+ Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cá tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học từ năm 1945 đến năm 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
- Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người Việt Nam có thể vượt lên mọi thử thách, trong máu lửa của chiến tranh đã hướng tới ngày chiến thắng, trong gian khó cơ cực đã nghĩ tới ngày ấm no, hạnh phúc. Cho nên, họ ra trận đi vào nơi mưa bom, bão đạn mà vui như trẩy hội: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu), "Những buổi vui sao, cả nước lên đưỡng - Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục" (Chính Hữu), "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" (Phạm Tiến Duật),... Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo không chỉ trong thơ mà còn trong nhiều thể loại văn học khác như: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, kịch bản sân khấu,...
+ Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm chi văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Tất cả những yếu tố trên hoà hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 về khuynh hướng thẩm mĩ.
- Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc lại mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 đến năm 1985, đất nước ta lại gặp những khó khăn, thử thách mới.
- Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta cũng từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hoá nước ta có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới. Văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông khác phát triển mạnh mẽ. Đất nước bước vào công cuộc đổi mới, thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học, của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học.
- Từ năm sau 1975, thơ không tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn như ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có những tác phẩm ít nhiều tạo được sự chú ý của người đọc.
- Chế Lan Viên từ lâu vẫn âm thầm đổi mới thơ ca. Điều ấy được thể hiện qua các tập Di cáo thơ. Những cây bút thân thuộc thế hệ chống Mĩ cứu nước vẫn tiếp tục sáng tác, sung sức hơn cả là Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu,... Hiện tượng nở rộng trường ca sau năm 1975 là một trong những thành tựu nổi bật của thơ ca giai đoạn này (Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu,...). Một số tập thơ có giá trị, khi ra đời, ít nhiều tạo được sự chú ý như: Tự hát của Xuân Quỳnh, Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm, Nhà thơ và hoa cỏ của Trần Nhuận Minh, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi, Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Ánh trăng của Nguyễn Duy, Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng,... Những cây bút thơ thuộc thế hệ sau năm 1975 xuất hiện rất nhiều, đang từng bước tự khẳng định mình. Tiêu biểu là Phùng Khắc Bắc với tập Một chấm xanh, Y Phương với tập Tiếng hát tháng giêng, Nguyên Quang Thiều với tập Sự mất ngủ của lửa, Trần Anh Thái với trường ca Đổ bóng xuống mặt trời,...
- Từ năm 1975, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn thơ ca. Một số cây bút đã bộc lộ ý thức muốn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống như Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng (1979), Thái Bá Lợi với Hai người trở lại trung đoàn (1979). Từ đầu những năm tám mươi, văn xuôi tạo được sự chú ý của người đọc với những tác phẩm như Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và con, và ..., Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lưu, những tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu,...
- Từ năm 1986, văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới. Văn học gắn bó hơn, cập nhật hơn những vấn đề của đời sống hàng ngày. Phóng sự xuất hiện, đề cập đến những vấn đề bức xúc của đời sống. Văn xuôi thực sự khởi sắc với các tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường; hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài,...
- Từ sau năm 1975, kịch nói phát triển mạnh mẽ. Những vở kịch như: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân Trinh,... là những vở tạo được sự chú ý.
=> Như vậy, từ năm 1975 và nhất là từ năm 1986, văn học Việt Nam từng bước chuyển sang giai đoạn đổi mới. Văn học vận động theo hướng dân chủ hoá, mang tính nhân bản và nhân văn sâu sắc. Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề: phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp nghệ thuật; cá tính sáng tạo của nhà văn được phát huy. Văn học đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh. Cái mới của văn học giai đoạn này là tính chất hướng nội, đi vào hành trình tìm kiếm bên trong, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và những tìm tòi đúng hướng cũng nảy sinh những khuynh hướng tiêu cực, những biểu hiện quá đà, thiếu lành mạnh. Văn học có xu hướng nói nhiều tới mặt trái của xã hội, ít nhiều có khuynh hướng bạo lực.