Nội dung lý thuyết
- Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 - 8 - 1911 tại xã Lộc Thủy, huyên Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Ông bắt đầu hoạt động cách mạng từ năm 1925 và là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Tháng 12 - 1944, ông được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng qân.
- Tháng 8 - 1945, ông là Ủy viên Ủy ban Quân sự Bắc kì, là thành viên Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
- Cách mạng tháng Tám thành công, ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
- Năm 1948, ông được phong hàm Đại tướng, là Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam.
- Ông từng trực tiếp chỉ huy chiến dịch Biên giới năm 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
- Võ Nguyên Giáp là Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1951 - 1982), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1946 - 1980), Phó thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1978 - 1992).
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Cuộc đời ông luôn song hành cũng những chặng đường lịch sử của dân tộc trong thế kỉ XX.
- Ông có nhiều tác phẩm hồi kí (do người khác ghi lại): Những năm tháng không thể nào quên (1970); Chiến đấu trong vòng vây (1978); Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử (1944),...
a. Xuất xứ - hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: nằm trương chương XII của tập hồi kí Những năm tháng không thể nào quên (do nhà văn Hữu Mai thể hiện, tên bài do người biên soạn đặt).
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1970 - những năm tháng gay go của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác giả hồi tưởng lại và ghi chép lại những sự kiện lịch sử trọng yếu có tính chất bước ngoặt của Cách mạng Việt Nam từ những ngày đầu trước Cách mạng tháng Tán năm 1945 đến những ngày đầu năm 1970.
b. Bố cục
- Phần 1: (Từ đầu đến "ập vào miền Bắc"): Hồi tưởng về giờ phút hiểm nghèo của đất nước ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Phần 2: (Tiếp đến "thêm trầm trọng"): Khó khăn mọi mặt của đất nước sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Phần 3: (Tiếp đến "ba trăm bảy mươi lăm ki-lô-gam vàng"): Những biện pháp tích cực và quyết tâm vượt khó của toàn Đảng, toàn Dân.
- Phần 4 (Còn lại): Hình ảnh Bác Hồ như sự tượng trưng cho một chỉnh thể mới, một nhà nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Để hồi tưởng về những ngày đầu của nước Việt Nam mới, tác giả đã xuất phát từ điểm nhìn hiện tại là bối cảnh đất nước của năm 1970, khi tương quan thế và lực của ta và địch đã hoàn toàn khác so với 25 năm về trước. Thời điểm năm 1945 là "thời kì làm mưa làm gió của chủ nghĩa đế quốc", nước ta chưa có tên trên bản đồ thế giới, chủ nghĩa đế quốc lộng hành, quân Tưởng ập vào nước ta từ nhiều phía. Còn trong thời điểm hiện tại (1970), các nước trên thế giới đã biết đến và ủng hộ nước ta. Dân tộc ta đã có thể đứng vững, hiên ngang, không khuất phục trước kẻ thù tàn bạo.
- Cảm nghĩ cụ thể của tác giả:
+ Tự hào khi Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời … lập tức nhận được sự hân hoan chào đón của cả loài người tiến bộ từ lâu trông chờ.
+ Hoài niệm và xúc động xúc động khi hồi tưởng lại thời kì trước 1945: đã rất xa, cái ngày mà người nước ngoài không sao tìm ra nước Việt Nam trên những tấm bản đồ.
- Về chính trị: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với khó khăn chồng chất, nằm giữa bốn về hùm sói, phải tự dốc sức mình đấu tranh dũng cảm, mưu trí, phải tìm mọi cách để sống còn. Mọi hoạt động của Đảng phải rút vào bí mật, tránh kích thích kẻ thù của dân tộc và của giai cấp. Chính quyền đã thành lập nhiều ngày nhưng chưa được nước nào công nhận.
- Về kinh tế tài chính: ruộng đất bỏ hoang, bão lụt và hạn hán hoành hành; một số nhà máy Nhật trao trả chưa hoạt động được; buôn bán với nước ngoài ngưng trệ, hàng hóa khan hiếm; tài chính trống rỗng chỉ có một triệu tiền cũ rách, lại bị đồng Quan kim nhiễu loạn.
- Xã hội: đời sống nhân dân rất thấp, thất nghiệp, đói kém, dịch bệnh lan tràn nhiều nơi.
-> Tiếng súng xâm lược của bọn thực dân Pháp vang lên rất sớm ở Nam Bộ "làm cho tất cả những khó khăn trên càng thêm trầm trọng".
- Củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, giải tán chính quyền cũ (chính quyền của thực dân phong kiến), xây dựng bộ máy chính quyền mới, từ chính quyền cơ sở là Hội đồng nhân dân, uỷ ban chấp hành đến Trung ương là quốc dân đại hội, toàn dân đóng góp ý kiến cho dự án chống Pháp.
- Thi hành một số chính sách mới: địa chủ phải giảm tô 25%, xóa nợ cho nông dân, toàn dân tăng cường học chữ quốc ngữ, học tập thi cử đều miễn phí, động viên tinh thần đóng góp trong nhân dân, lập quỹ độc lập, kêu gọi đồng bào hưởng ứng “tuần lễ vàng". Nội lực của nước Việt Nam mới được nâng lên nhanh chóng.
- Tình yêu nước cao cả và nhân cách đẹp đẽ ở Người: Ở Người, mọi vấn đề mọi chuyện của Đảng, của nước, của dân đều trở thành những rung động sâu xa trong tình cảm.
- Bác luôn coi chính quyền cách mạng là chính quyền của nhân dân, vì nhân dân.
- Mọi chính sách của Bác đều vì hạnh phúc của nhân dân: đưa ra ba mục tiêu diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Lí tưởng và tấm lòng của Bác là hạnh phúc cho dân, đó là mục đích của việc giành lấy chính quyền và giữ vững, bảo vệ chính quyền ấy.
- Bác đưa ra hai nhiệm vụ sáng suốt: xây và chống tiến hành song song trong buổi đầu củng cố chính quyền và thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của cán bộ chính quyền.
1. Nghệ thuật
- Hồi kí mang đậm dấu ấn cá nhân đặc biệt của đại tướng Võ Nguyên Giáp (đặc biệt bởi yếu tố cá nhân của đại tướng hòa nhập với cái chung của Đảng, của nhân dân đất nước).
- Những cảm nghĩ, nhận xét, đánh giá thường mang tính khách quan, tiêu biểu cho cảm nghĩ chung của người lãnh đại Đảng và Chính phủ.
- Thể hồi kí có diện mạo mới, một tầm vóc mới, không còn là sách trần thuật về một cuộc đời mà gần như là một cuốn biên niên sử của cả một dân tộc.
2. Nội dung
- Đoạn trích ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng của nước Việt Nam ở vào một thời điểm trọng đại, một giai đoạn đầy khó khăn và vinh quang của đất nước.