Nội dung lý thuyết
- Quang Dũng ,tên khai sinh là Bùi Đình Diệm.(1921 - 1988)
- Quê quán: làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
- Là thế hệ thơ tài năng, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988)
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Tây Tiến được sáng tác trong những năm không thể nào quên của đất nước, đó là năm 1948, khi Quang Dũng đi dự đại hội Toàn quân liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh. Bào thơ được in lần đầu tại Nhà xuất bản Vệ quốc năm 1949.
- Tây Tiến là bài thơ viết về một đơn vị quân đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947. Thành phần bao gồm các thanh niên học sinh, sinh viên của Hà thành hoa lệ.
- Sau khi đưa vào tập Rừng biển quê hương cùng Trần Lê Văn chỉ còn lại hai chữ Tây Tiến.
b. Bố cục
- Khổ 1: Những chặng đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến giữa khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội.
- Khổ 2: Kỉ niệm về tình quân dân và bức tranh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng.
- Khổ 3: Chân dung người lính Tây Tiến.
- Khổ 4: Lời thề gắn bó với binh đoàn Tây Tiến.
- Nhà thơ bắt đầu bức tranh miền Tây bằng tiếng gọi " Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!". Tiếng gọi cất lên nghe tha thiết, chân thành như tiếng gọi người yêu vậy. Đó là tiếng gọi của một thời xa vắng, một trời kỉ niệm. Bao nhớ thương, nuối tiếc được gửi gắm trong cụm từ "Sông Mã xa rồi", xa sông Mã để nỗi nhớ trở nên chơi vơi. Đó là một nỗi nhớ mênh mông, bông fbeefnh ttrong không gian, triền miên trong thời gian, nó tồn tại như một sự ám ảnh, khôn nguôi đối cới người xa đơn vị Tây Tiến.
- Với cách gieo vần "ơi", "chơi vơi" khiến câu thơ lan toả, ngân dài, nó như dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào cảm xúc, muốn được chia sẻ, giãi bày hồi ức, kỉ niệm của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến.
- Sau tiếng gọi là một trời kỉ niệm hiện ra trong tâm hồn nhà thơ. Những địa danh vang lên hiện hữu:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
- Mỗi địa danh gắn liền với trạng thái khác nhau của đoàn quân Tây Tiến. Khi thì căng thẳng, mệt mỏi trên những con đường anh đi đã in dấu. Nhưng cũng có khi điểm dừng lại là một khung cảnh thơ mộng, nhẹ nhàng, lung linh huyền ảo của đất rừng Tây Bắc vào đêm. Lại cũng có khi địa hình miền Tây gập ghềnh, khúc khuỷu, bị cắt xẻ dữ dội: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống".
- Câu thơ bị bẻ làm đôi, đứt gãy nửa chừng như thăm thẳm rừng sâu, chập trùng dốc núi. Rồi cũng lại có lúc "Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi" trải rộng bao la, êm đềm thoáng đạt.
=> Bức tranh Tây Bắc hiện lên vừa hùng vĩ nhưng cũng không kém phần hiểm trở, dữ dội, thử thách với đoàn quân. Nhà thơ đã phác vẽ bức tranh ấy bằng những từ láy liền kề, liên tiếp "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" khiến cho nhạc điệu của bài thơ chuyển đổi linh hoạt, khi gập ghềnh trúc trắc, lúc êm đềm ngân nga. Nó như bảng màu trong tay người hoạ sĩ Quang Dũng, bên cạnh những gam màu sắc nét, người hoạ sĩ phớt nhẹ những gam màu thanh nhạt tạo thành bức tranh miền Tây nhiều màu sắc.
- Núi rừng qua nét vẽ ấn tượng:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
- Nghệ thuật nhân hoá : "Thác gầm", "cọp trêu” đã gợi tả sự dữ dội, hoang sơ, bí hiểm và đầy đe dọa của núi rừng miền Tây.
- 2 thanh trắc âm vực cao "thác", "thét”; 2 thanh nặng âm vực thấp "hịch", "cọp” nhằm thể hiện sự de doạ nặng nề của thú dữ ở vùng thấp tối.
- Từ láy "chiều chiều, đêm đêm” tuần hoàn, lặp lại như diễn tả sự vĩnh hằng của thời gian.
=> Núi rừng miền Tây là nơi ngự trị muôn đời của sức mạnh thiên nhiên dữ dội, bí hiểm.
- Bức tranh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình
+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân.
+ Mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
+ Nghệ thuật: Tất cả âm tiết là thanh bằng, thanh không, âm mở (chữ cái tận cùng là nguyên âm); ẩn dụ "khơi”- biển mưa.Tất cả tạo nên một không gian mênh mông chìm trong mưa nguồn suối lũ.
+ Cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi.
+ Mùa em: mùa lúa chín; liên tưởng xao xuyến nồng nàn trước nụ cười rạng rỡ, ánh mát sóng sánh từ tình người miền Tây.
+ “Nhà ai”: vừa phiếm chỉ, vừa nghi vấn.
=> Người lính dừng chân nghỉ ngơi ở thung lũng mưa, đưa mắt nhìn và thấy ngôi nhà thấp thoáng. Hình ảnh mang cảm giác chạnh lòng nhớ vể gia đình, người thân; ấm áp, yên bình như được an ủi trên đường hành quân của chàng lính xa nhà.
* Hình ảnh người lính Tây Tiến đi hành quân:
- Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời, cọp trêu người (chất lính).
- Kí ức về người lính trên đường hành quân:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
+ Anh bạn: gọi đồng đội tình cảm thân thiết, gắn bó.
+ Từ láy "dãi dầu" thể hiện sự vất vả, khó khăn, nhọc nhằn mà người lính phải đối mặt, vượt qua trên đường hành quân.
+ Không bước nữa, bỏ quên đời: Có thể hiểu là nghỉ ngơi buông mình vào giấc ngủ vô tư lự trẻ trung.
=> Đoạn thơ nổi bật chất lên sự bi tráng, thể hiện vẻ đẹp ngang tàng, anh dũng, ngạo nghễ, bi mà không luỵ, tinh nghịch bông đùa với cái chết, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
- Thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
- Không gian: ánh sáng lung linh của lửa đuốc, âm thanh réo rắt của tiếng đàn, cảnh vật và con người như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.
- Nhân vật trung tâm: em với áo xiêm lộng lẫy (xiêm áo tự bao giờ), vừa e thẹn vừa tình tứ (e ấp), vừa duyên dáng trong điệu vũ xứ lạ (man điệu).Làm say đắm lòng người chiến sĩ xa nhà.
- Hai chữ kìa em: cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa mê say, ngây ngất của các chàng trai Tây Tiến.
=> Tất cả đều tập trung vẻ đẹp lung linh, hoang dại, trữ tình đến mê hoặc.
- Cảnh sông nước miền Tây:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
- Không gian: Dòng sông trong một buổi chiều mưa giăng mắc một màu sương; sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử => mênh mông, nhoè mờ, ảo mộng.
- Con người:
+ Dáng người trên độc mộc: dáng hình mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái trên những chiếc thuyền độc mộc.
+ Vẻ đẹp của con người hoà hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên: những bông hoa rừng cũng “đong đưa”, làm duyên trên dòng nước lũ.
=> Những nét vẽ mềm mại, duyên dáng khác hẳn với những nét khoẻ khoắn, gân guốc khi đặc tả cảnh dốc đèo.
=> Ngôn ngữ tạo hình, giàu tính nhạc, chất thơ và chất nhạc hoà quyện: thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên và con người.
- Chân dung hiện thực của người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
- Vừa bi: Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã:
+ “Không mọc tóc”: người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi giáp lá cà, người thì bị sốt rét đến rụng tóc.
+ “Quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét, bệnh tật hành hạ.
- Vừa hùng: không né tránh hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua cái nhìn lãng mạn:
+ “Đoàn binh không mọc tóc”: “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân”.
=> Hào hùng, hình ảnh những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.
+ “Quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm”.
=> Thể hiện tính cách anh hùng, nét oai phong, dữ dằn như chúa tể chốn rừng thiêng.
- Tâm hồn lãng mạn của người lính.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
- “Mắt trừng”: cái nhìn nảy lửa đối với kẻ thù. Đôi mắt như thiêu đốt quân thù. Thể hiện nét oai phong, lòng quyết tâm đánh giặc đến cùng.
- “Gửi mộng qua biên giới”: chiến đấu dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương, gửi "mộng" cũng tức là gửi gắm hoài bão, lí tưởng, tâm hồn mình qua biên giới vì nhiệm vụ của người lính là bảo vệ biên giới nên họ luôn đề cao tinh thần trách nhiệm của mình.
- Nỗi nhớ trong giấc mơ: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Đó là nỗi nhớ người yêu, những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp.
-> Đằng sau vẻ ngoài dữ dằn, oai nghiêm là trái tim khao khát yêu thương đầy chất nghệ sĩ (mang trong mình một bóng hình lãng mạn vì họ vốn là những chàng trai trẻ Hà Nội thanh lịch, hào hoa). Bài thơ đã diễn tả đúng thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
=> Cảm hứng có bi mà không luỵ: ta thấy cái gian khổ của chiến tranh nhưng cũng cảm nhận được vẻ oai hùng, lãng mạn của người lính. Cái lãng mạn đậm chất lính của họ làm dịu mát tâm hồn, tiếp cho họ thêm sức mạnh, động lực để bước tiếp trên con đường hành quân trường kì.
- Cái chết bi tráng và sự bất tử:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Những từ Hán Việt cổ kính: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Tạo không khí trang trọng, thiêng liêng, làm giảm nhẹ cái bi thương của hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi.
- Phủ định từ chẳng (khác với không - sắc thái trung tính) và cách nói hoán dụ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Cho thấy một thái độ kiên quyết hi sinh vì Tổ quốc, lí tưởng quên mình thật cao đẹp làm vơi đi cái đau thương.
- Hai câu thơ tiếp theo thấm đẫm tinh thần bi tráng:
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- "Áo bào thay chiếu" đã nói lên một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, phải mai táng bằng chính chiếc áo các anh mặc hàng ngày.
- Gọi áo các anh là áo bào nghe trang trọng, thiêng liêng, thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội.
- Cách nói giảm nói tránh anh về đất làm vơi đi cảm giác đau thương, ẩn chứa hàm nghĩa: chết là hoá thân với đất mẹ, là hoá thân với non sông đất nước. Cái chết trở thành bất tử.
- Biện pháp nhân hoá và động từ "gầm", "dữ dội", "hào hùng" là những âm thanh làm át đi cảm xúc bi thương: gợi về sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thuở xưa, đưa tiễn người là khúc nhạc bi tráng của núi sông.
=> Giọng thơ trang trọng: thể hiện tình cảm tiếc thương, sự trân trọng và kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
- Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”. Tô đậm bầu không khí chung của một thời Tây Tiến với lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại (nhất khứ bất phục hoàn).
- Đường lên Tây Tiến thăm thẳm, chia phôi thể hiện nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi.
- Lời thề cùng Tây Tiến: Mùa xuân ấy, thời điểm lịch sử ấy sẽ không bao giờ trở lại.
-> Mốc thương nhớ vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời.
- Cách nói đối lập và ẩn dụ: Sầm Nứa (tâm hồn) >< về xuôi (thể xác). Thể hiện sự gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến: dù đã rời xa nhưng tâm hồn, tình cảm vẫn đi cùng đồng đội, vẫn gắn bó máu thịt với những ngày tháng, những địa điểm đã đi qua.
=> Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm buồn nhưng tinh thần chẳng về xuôi làm toát lên vẻ hào hùng của cả đoạn thơ.
1. Nghệ thuật
- Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn.
- Hình ảnh thơ phong phú, gần gũi, chân thực.
- Ngôn ngữ thơ linh hoạt, đa dạng.
2. Nội dung
- Bài thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa tráng lệ và thơ mộng. Xây dựng thành công hình tượng bi tráng về người lính Tây Tiến với vả đẹp hào hùng, hào hoa.