Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918

Diệp Phi Yến
Xem chi tiết
Thảo Phương
11 tháng 2 2018 lúc 9:40

Trình bày cuộc khởi nghĩa Hương Khê 1885-1886. ?

* Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng.
*Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).
* Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
* Diễn biến: Hai giai đoạn
_ Từ năm 1885-1888: nghĩa quân lo tổ chức, huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo.
_ Từ năm 1888 đến 1895: là thời kì chiến đấu của nghĩa quân . Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân và càn quét của giặc.
+ Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng 1 hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây , cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấ công quy mô vào Ngàn Trươi.
+ Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần.
+ Sau khi chủ tướng Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã.
* Kết quả:Cuộc khởi nghĩa thất bại.

Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương ?

Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Trình độ tổ chức quy cũ, gồm 15 quân thứ do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.
- Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương.
- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

Bình luận (0)
Ara T-
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Phương Hoa
12 tháng 3 2018 lúc 14:50

3. Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Trình độ tổ chức quy cũ, gồm 15 quân thứ do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.
- Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương.
- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

Bình luận (1)
Nguyễn Thị Phương Hoa
12 tháng 3 2018 lúc 14:50

2. Từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược :
Dựa vào nội dung các hiệp ước mà triều đình kí với Pháp :
- Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 : thừa nhận sự cai quản của Pháp ờ 3 tỉnh Nam Bộ (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn ; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán...
- Hiệp ước Giáp Tuất 1874 : thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp...
- Hiệp ước Hác-măng 1883 : Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ờ Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.ệ.
- Hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884 : Triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp...
Như vậy, qua những hiệp ước trên, ta thấy quá trình của triều đình Huế từ chỗ cắt từng bộ phận lãnh thổ rồi đi đến thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta (các điều khoản, điều kiện này càng nặng nề hơn, tính chất thỏa hiệp, đầu hàng ngày một nghiêm trọng hơn).

Bình luận (0)
Nguyễn Thu Hà
Xem chi tiết
minh nguyet
10 tháng 3 2019 lúc 20:41
Tên khởi nghĩa Lãnh đạo Địa bàn hoạt động Lực lượng tham gia Tính chất Thời gian tồn tại Kết quả
Khởi nghĩa Hương Khê Quan lại, sĩ phu yêu nước Khó hẹp, phân tán Nông dân ở các địa phương, nơi xảy ra các cuộc khởi nghĩa Tính phong kiến và tính dân tộc 10 năm (thời gian ngắn) Thất bại
Khởi nghĩa Yên Thế Xuất thân từ nông dân Địa bàn rộng lớn Nhân dân các địa phương tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp Tính dân tộc và yêu nước 30 năm (thời gian dài) Thất bại
Bình luận (0)
Lam Vo
Xem chi tiết
Flash Dora
12 tháng 1 2019 lúc 16:56

Chính sách văn hóa, giáo dục của Pháp không phải để “khai hoá văn minh” cho người Việt Nam, vì:

- Chính sách của Pháp hạn chế phát triển giáo dục ở thuộc địa, duy trì chế độ giáo dục của thời phong kiến, lợi dụng hệ tư tưởng phong kiến và tri thức cựu học để phục vụ chế độ mới.

- Số trường học chỉ được mở một cách dè dặt, số trẻ được đến trường rất ít, càng ở các lớp cao, số học sinh càng giảm dần.

- Chính sách văn hóa, giáo dục của Pháp nhằm mục đích:

+ Thông qua giáo dục nô dịch, thực dân Pháp muốn tạo ra một lớp người chỉ biết phục tùng.

+ Triệt để sử dụng chính quyền phong kiến, “dùng người Việt trị người Việt”.

+ Thực hiện chính sách “Ngu dân”: kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu dốt để dễ bề cai trị.


Bình luận (0)
Phạm Thị Thùy Diễm
Xem chi tiết
Hoàng Nguyễn
30 tháng 3 2018 lúc 20:55

hiệp ước hác măng

tân sở quảng trị

Bình luận (1)
Tun Duong
Xem chi tiết
Phạm Hương Trà
26 tháng 3 2018 lúc 20:24

Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Trình độ tổ chức quy cũ, gồm 15 quân thứ do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.
- Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương.
- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

_ ĐÚNG THÌ XIN 1 LIKE Ạ .

Bình luận (0)
Khưu Thị Bích Ngọc
26 tháng 3 2018 lúc 20:52

Vì :
+ Đây là cuộc khởi ngĩa có quy mô lớn, địa bàn rộng.
+Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là các văn thân các tỉnh Thanh- Nghệ- Tỉnh.
+ Thời gian tồn tại 10 năm.
+Tính chất ác liệt chống Pháp và chính quyền phong kiến bù nhìn, tính chất cuộc khởi nghĩa có sự thay đổi : đó là sự xung đột giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp và chính quyền phong kiến tay sai , tức nội dung dân tộc của cuộc khởi nghĩa đã thể hiện rõ, chứ không còn là xung đột giữa đế quốc và phong kiến.

Bình luận (0)
Tun Duong
Xem chi tiết
Huynh Dat Vo
Xem chi tiết
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
28 tháng 3 2019 lúc 21:40

Nguyễn Trường Tộ (1828- 1871) sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, theo đạo Thiên Chúa. Ông sinh ra và lớn lên khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đã hình thành và đang vươn lên khắp mọi nơi để xâm chiếm thuộc địa. Giữa thế kỷ XIX, những cuộc xâm lăng của thực dân phương Tây vào các nước phương Đông ngày càng được đẩy mạnh. Sự xâm lăng này đã đánh mạnh vào thành trì phong kiến của các nước phong kiến phương Đông, phá vỡ cấu trúc cũng như nền quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm.

Nguyễn Trường Tộ ngay từ nhỏ đã rất thông minh, khi còn đi học đã nổi tiếng về tài uyên bác (được mọi người gọi là “Trạng Tộ”). Ông có một kiến thức Hán học rất phong phú. Trong thời gian đi học, ở đâu ông cũng được thầy khen giỏi. Ông là người rất chú trọng lối học thực dụng tìm hiểu những điều thực tế xung quanh. Trong học tập ông còn đóng thêm một cuốn sổ nhỏ để ghi chép những điều mới lạ khi tai nghe mắt thấy và những điều xung quanh, suy nghĩ của riêng mình. Nguyễn Trường Tộ không thích lối học văn chương khoa cử đương thời, đó cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến ông không dự một kỳ thi nào (mặt khác do ông là người công giáo nên không được dự thi) nhưng ông cũng học thuộc các kinh chuyện và viết văn rất hay.

Năm Ất Mão 1855, Giám mục người Pháp tên là Go- Chi- Ê (tên Việt Nam là Ngô Gia Hậu) mời ông dạy tiếng Hán cho chủng viện xã Đoài. Thấy Nguyễn Trường Tộ thông minh, giám mục người Pháp liền dạy cho ông chữ Pháp và một vài môn phổ thông. Có thể nói đây là lần đầu tiên Nguyễn Trường Tộ được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, cũng là cái mốc đánh dấu sự phát triển nhận thức của Nguyễn Trường Tộ đã vượt lên trên tư tưởng của các nhà nho đương thời. Đối với những môn học mới này, ông học rất tiến bộ, được giám mục người Pháp hết sức khen ngợi, cho ông đi thăm Hương Cảng, Singapo, Roma... Năm Mậu Tuất 1858, khi triều đình Huế ban lệnh “cấm đạo” gay gắt, giám mục người Pháp liền đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp và gửi ông lưu học ở Paris hơn 2 năm. Đây là thời gian Nguyễn Trường Tộ tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Thời gian hơn 2 năm ở Pháp đã giúp ông hiểu biết khá nhiều điều mới lạ, những cái hay cái đẹp của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đấy là xu hướng tất yếu lúc bấy giờ.

Với hoàn cảnh của bản thân như vậy, đồng thời dưới tác động mạnh mẽ của yếu tố thời đại và dân tộc, Nguyễn Trường Tộ đã sớm hình thành trong mình tư tưởng cải cách duy tân đất nước. Với tấm lòng yêu nước thiết tha vủa mình, ông chỉ mong làm sao cho dân giàu nước mạnh, làm sao giữ được chủ quyền của dân tộc, tránh nguy cơ mất nước. Trước tình hình xã hội lúc bấy giờ càng làm cho ông nung nấu thêm tư tưởng duy tân đất nước.

Sau hơn 2 năm du học ở Pháp. Năm Tân Dậu 1861, Nguyễn Trường Tộ về đến Sài Gòn. Lúc này thực dân Pháp đã đánh chiếm Gia Định, ông bị bắt đưa vào làm phiên dịch cho chúng. Lúc đó, ông nhận thấy rằng, chúng ta chưa có đủ điều kiện, khả năng để chống Pháp, cho nên ông chủ trương muốn hòa với địch. Chính vì vậy mà ông mới làm việc cho Pháp. Ông muốn giúp triều đình, góp một phần trong việc giảng hòa. Việc làm trên đây của ông đã gây cho sự nghiệp chính trị những hậu quả tai hại. Triều đình nhà Nguyễn vốn đã nghi ngờ ông là người công giáo theo giặc, giờ đây nhà Nguyễn lại có cớ để nghi ngờ ông, tất nhiên khó mà tiếp thu ý kiến của ông sau này.

Trong thời gian ở Sài Gòn, ông nhận lời của hội truyền giáo đứng đốc công xây dựng nhà thờ và nhà tu kín ở Sài Gòn, sau đó ông trở về quê hương Nghệ An. Năm Giáp Tý 1864, Nguyễn Trường Tộ được một cơ quan nghiên cứu của Anh mời sang, nhưng do triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận nên ông không được đi.

Tháng 9 năm Bính Dần 1866, triều đình Huế sai Nguyễn Trường Tộ cùng giám mục Gô- Chi- Ê và đạo trưởng Nguyễn Điền sang Pháp để mược giáo sư, kỹ thuật gia và mua máy móc, sách vở... về lập một trường kỹ thuật theo lối phương Tây.

Trong thời gian ở Pháp, ông đã gửi cho triều đình một bản điều trần rất quan trọng và đầy đủ nhất của ông. Đó là bản “Tế cấp bát điều”, nội dung của bản điều trần này vô cùng phong phú. Nhưng lúc bấy giờ tình hình chiến sự của ta rất căng thẳng, quân Pháp đã mở rộng chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn vô cùng hoang mang lo sợ và nghi ngờ lung tung, bèn ra lệnh triệu tập luôn cả phái đoàn của Nguyễn Trường Tộ đang ở Pháp về trước thời hạn, chính vì vậy mà việc mở trường kỹ nghi bị bỏ dở.

Tháng 4 năm Mậu Thìn 1868, Nguyễn Trường Tộ mạnh dạn dâng sớ xin triều đình đừng gửi sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại Nam Kỳ lục tỉnh nữa vì ông biết rằng làm như vậy sẽ tốn công vô ích. Ông cho rằng, thời cơ lấy lại Nam Kỳ lúc đó chưa có, ông đề nghị triều đình hãy chuẩn bị thời cơ để lấy lại nước và gấp rút duy tân thì hơn.

Cuối năm Canh Ngọ 1870, ông xin triều đình cho vào Nam để chuẩn bị một cuộc đột kích vào Gia Định, vì ông dự đoán nền đế chế thứ hai sẽ sụp đổ. Đây là lần đầu tiên, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ tách khỏi tư tưởng chủ hòa của mình. Ông cho rằng cách mạng Pháp sẽ bùng nổ và đề nghị triều đình phải nắm lấy thời cơ này để đoạt lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Huế, đứng đầu là vua Tự Đức, đã không biết nắm lấy thời cơ để chiến đấu quyết liệt với thực dân Pháp, thu hồi lại Nam Kỳ, mà ngược lại còn viết thư chia buồn với soái phủ Pháp ở Nam Kỳ. Còn vấn đề cải cách của Nguyễn Trường Tộ thì chỉ được thự hiện một vài chi tiết nhỏ, lặt vặt, không đủ để cứu vãn tình thế, nguy cơ mất nước. Trong năm 1871, Nguyễn Trường Tộ vẫn kiên trì gửi thêm các điều trần đề nghị cải cách duy tân đất nước, đề nghị mở cửa thông thương với nước ngoài. Cho đến ngày 10- 10- 1871, sau thời gian dài bị bệnh nặng (ung thư ruột), Nguyễn Trường Tộ đã qua đời ở tuổi 43, ông đã để lại những bản điều trần, những đề nghị cải cách dở dang chưa thực hiện được.

Mặc dù chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng với những vấn đề cải cách duy tân đất nước to lớn của mình, Nguyễn Trường Tộ đã có một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cận đại Việt Nam. Ông là một trong những người mở đầu cho xu hướng duy tân đất nước ở nước ta. Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ có hệ thống và toàn diện, chứng tỏ một điều rằng, ông là người thiết tha yêu nước, có trình độ học vấn uyên thâm, có tư tưởng tiến bộ vượt lên trên tư tưởng phong kiến lạc hậu, cổ hủ lúc bấy giờ. Những đề nghị, cải cách của Nguyễn Trường Tộ gồm tất cả những mặt như kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa- xã hội.

Bình luận (0)
Hồ Thị Phương Thúy
5 tháng 4 2019 lúc 22:45

cải cách cuộc nguyễn trường tộ toàn diện ,đề cập đến nhiều vấn đề:chính trị,pháp luật,tôn giáo,quân sự, ngoại giao,giáo dục,kinh tế.... để đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa

Bình luận (0)
Tun Duong
Xem chi tiết
Giang
26 tháng 3 2018 lúc 19:38

Trả lời:

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 - 12 - 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.
Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 - 3 - 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

Bình luận (0)
Bích Ngọc Huỳnh
27 tháng 3 2018 lúc 19:06

Trình bày những nét chính về cuộc khởi nghĩa của quân dân hà nội và các tỉnh đồng bằng bắc kì ?

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 - 12 - 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.
Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 - 3 - 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

Bình luận (0)
Châu Nguyễn
Xem chi tiết
Bích Ngọc Huỳnh
27 tháng 3 2018 lúc 19:07

Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.

Bình luận (0)