Hơi dài dòng nhưng bạn tham khảo nha:
=> Diễn biến
Lý Bí(hay còn gọi là Lý Bôn), quê ở Thái Bình. Tổ tiên ông là người Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp từ lâu. Ông được cử giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu. Một thời gian sau, vì căm ghét bọn độ hộ nhà Lương, ông đã từ quan về quê, ngầm liên lạc với các hào kiệt trong vùng để chuẩn bị khởi nghĩa.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí càng lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục phục tài đức của ông nên đã đem quân nhập với quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ cho chức "gác cổng thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bí. Ngoài ra trong lực lượng của Lý Bí còn có một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi và rất khoẻ mạnh lại giỏi võ.
Lý Bí kết hợp với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh và hùng dũng.Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng Châu. Quân của Lý Bí đánh chiếm lấy thành Long Biên, tiêu diệt số giặc còn lại.
Tuy Tiêu Tư bỏ chạy nhưng Lý Bí mới kiểm soát được vùng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay, các châu phía nam vẫn trong tay nhà Lương. Tháng 4 năm 542, Lương Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu,La châu là Ninh Cự, An châu là Úy Trí, Ái châu là Nguyễn Hán cũng hợp binh đánh Lý Bí. Nhưng Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, chiếm được Hoàng Châu, làm chủ toàn bộ Giao Châu.Quân giặc chết ráo.
[hiện]
Nam
|
Cuối năm 542,Lương Vũ Đế cho Lư Tử Hùng và Tôn Quýnh mang quân sang đàn áp.Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sợ thế mạnh của Lý Bí nên không giám tiến quân xin tới mùa Đông năm sau.Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ánh không cho,Tiêu Tư cũng thúc giục nên Quýnh và Hùng buộc phải tiến binh.Nghe tin quân Lương lại tiến đánh,Lý Bí chủ động đón đánh.Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đi đến Hợp Phố, bị quân Lý Bí đánh bại, 10 phần chết đến 6-7 phần, quân giặc bỏ chạy, Lư Tử Hùng bị giết.
Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]Năm Giáp Tý 544, Lý Bí lên ngôi sau khi đánh đuổi thành công ách đô hộ nhà Lương, lấy hiệu Lý Nam Đế đặt lại tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch, đặt niên hiệu Thiên Phúc, Phạm Tu đứng đầu ban văn, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Triệu Túc giúp vua cai quản mọi việc.
Giai đoạn thứ hai Chuẩn bị của nhà Lương[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi thất bại, vua Lương lúc bấy giờ là Lương Vũ Đế rất tức giận. Năm 545, tháng 5, nhà Lương cho Dương Phiêu (hay Dương Thiệu) làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem quân xâm lăng, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với Phiêu ở Giang Tây.
Diễn biếnLý Nam Đế đem quân chống cự ở vùng Lục Đầu (thuộc Hải Dương) nhưng không cản được địch. Vua cho quân lui về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Song thành bằng đất, lũy bằng tre gỗ mới dựng không giữ được lâu. Quân địch đang mạnh, tấn công rất ác liệt. Thành Tô Lịch vỡ, lão tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế lại phải lui quân, ngược sông Hồng về giữ thành Gia Ninh (ở miền đồi núi Việt Trì). Quân Lương đuổi theo, vây hãm, chiếm được thành Gia Ninh (đầu năm 546).Lý Nam Đế cùng với tướng sĩ rút vào miền núi Phú Thọ. Trong trận này, Triệu Túc hy sinh, Tinh Thiều bị địch giết.
Được sự ủng hộ tích cực của nhân dân các dân tộc, chỉ vài tháng sau Lý Nam Đế đã khôi phục được lực lượng, quân số lên tới vài vạn người, Lý Nam Đế lại đem quân và thuyền bè ra đóng ở hồ Điển Triệt.
Hồ Điển Triệt nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15km. Xưa có con ngòi thông sông với hồ, ba mặt đông, nam, bắc của hồ là các dải đồi cao, phía tây là những đồi thấp hơn và cánh đồng trũng. Từ sông Lô chỉ có một đường đi vào phía bắc của hồ.
Thấy quân Lý Nam Đế xuất hiện, quân Lương từ Gia Ninh ngược sông Lô kéo lên tấn công.Bị đánh cản kịch liệt, quân Lương không tiến lên được, phải đóng ở giữa đồng trống. Quân lính mỏi mệt, tướng chỉ huy nhiều tên cũng chán nản. Nhưng Trần Bá Tiên vừa hung hăng vừa xảo quyệt, hắn nói:
"Quân ta ở đây đã lâu, mà lại không có quân tiếp viện. Bây giờ đã đi sâu vào trong nước người ta, nếu một trận đánh nào bất lợi, còn mong gì sống mà về được nữa? Chi bằng bây giờ nhân dịp quân địch đang thua luôn mấy trận, lòng người chưa cố kết, ta nên liều chết gắng sức quyết đánh bằng được. Nếu vô cớ cứ đóng ở đây thì việc hỏng mất!"
Đêm ấy bỗng nhiên trời mưa to gió lớn, nước sông dâng cao 7 thước, y đã thúc quân tràn vào đánh úp nơi Lý Nam Đế đóng quân. Không trở tay kịp, quân ta tan vỡ nhanh chóng.Lý Nam Đế lại phải lui vào động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh vua là Lý Thiên Bảo, cùng Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) được tin Lý Nam Đế thua trận đem 3 vạn quân vào đánh Đức Châu,giết chết thứ sử Trần Văn Giới, Trần Bá Tiên nghe tin liền cho quân đuổi đánh nên Lý Thiên Bảo cùng với Lý Phật Tử đem quân bỏ chạy về Thanh Hóa. Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3 (tức ngày 13-4 dương lịch),Lý Nam Đế mất và trao quyền cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Triệu Quang Phục là con của Thái phó Triệu Túc, người huyện Chu Diên. Ông được sử sách mô tả là người uy tráng dũng liệt, được vua Lý Nam Đế rất tin cậy.Năm 547, tháng giêng, Triệu Quang Phục lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm. Ông dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp hết lương thực vũ khí, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Người trong nước gọi ông là Dạ Trạch Vương (夜澤王).
Sau khi nghe tin Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lạo, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương.Trần Bá Tiên nhiều lần cho quân vây đánh và tăng cường lực lượng nhưng không đánh được quân ta. Năm 550, Trần Bá Tiên nói rằng:
"Quân Triệu Quang Phục mạnh,quân ta nhiều nên cầm cự lâu ngày chắc không sao,chỉ chờ cho quân Vạn xuân đến ta thừa cơ mai phục tất sẽ thắng,muốn dùng kế này phải chờ cho quân Triệu Quang Phục sức yếu!"
Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về (sau này Trần Bá Tiên cướp ngôi vua của nhà Lương năm 557), ủy cho tì tướng là Dương Sàn ở lại. Nhận thấy thời cơ, Triệu Quang Phục thừa thế tung quân ra đánh,ông cho Trịnh Đô làm tiên phong, đem theo 4 vạn binh mã trấn áp quân Lương. Dương Sàn cho quân ra cố thủ, chống cự, Trịnh Đô rất tức giận, bao vây Long Biên, Dương Sàn bị giết chết . Quân Lương tan vỡ chạy về nước.Cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, tổ chức lại chính quyền đặt hiệu là Triệu Việt Vương.
Diễn biến cuộc kháng chiến của Lý Bí :
- Năm 542 : Lý Bí phất cờ khởi nghĩa
- Sau 3 tháng , cuộc khởi nghĩa chiếm gần hết các quận , huyện
- Tháng 4 năm 542 : nhà Lương kéo quân đàn áp cuộc khởi nghĩa nhưng thất bại
- Năm 543 : nhà Lương tiến quân lần 2
DIỄN BIẾN :
-Mùa xuân 542 Lí Bí dựng cờ khởi nghĩa ở Thái Bình và được hào kiệt khắp nơi về hưởng ứng.
-Gần 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được hầu hết quận huyện.
-Tháng 4 năm 542 nhà Lương huy động quân sang đàn áp nhưng bị quân ta đánh bại.
-Đầu năm 543 nhà Lương huy động quân sang đàn áp khởi nghĩa lần 2 nhưng thất bại.
Khởi nghĩa Lý Bí và Nhà nước Vạn Xuân (542 - 602)
1. Ách đô hộ của nhà Lương
Vào nửa đầu thế kỷ thứ sáu, đất nước ta bị phong kiến nhà Lương thống trị. Nhà Lương đã chia lại các khu vực hành chính, lập thêm châu, đặt thêm quận, tuyển thêm quan lại để thu vét thuế. Trồng cây dâu cao một thước (1) cũng phải nộp thuế, thậm chí bán vợ đợ con cũng phải đóng thuế. Nhà Lương còn thi hành chính sách phân biệt đối xử rất gay gắt. Chỉ có con cháu nhà Lương và một số dòng họ lớn (họ Vương, họ Tạ...) mới được giao giữ chức vụ quan trọng. Thứ sử châu Giao bấy giờ là Tiêu Tư, người cùng một họ với vua Lương, nổi tiếng tham lam gian ác. Nhân dân ta ai ai cũng đem lòng oán hận. Sử sách Trung Quốc cũng phải thú nhận Tiêu Tư "tàn bạo mất lòng dân".
2. Khởi nghĩa Lý Bí
Lý Bí là một hào trưởng địa phương, quê ở huyện Thái Bình (có lẽ thuộc vùng hai bên bờ sông Hồng, phía trên thị xã Sơn Tây). Có tài, võ giỏi mưu cao, ông còn là người rất mực yêu nước, thương dân.
Một thời gian, Lý Bí có giữ một chức quan nhỏ, coi việc quân ở Châu Đức (Hà Tĩnh). Nhận thấy tình cảnh cơ cực của dân, ông đem lòng chán ghét chính quyền đô hộ. Cuối cùng, ông từ chức về quê nhà, mưu tính việc lớn. Nhân lòng oán hận quân Lương của mọi người, Lý Bí đã chiêu mộ được nhiều quân, trữ được nhiều lương thực. Ông còn liên kết với hào kiệt các nơi chuẩn bị cùng nổi dậy.
Theo sử cũ, bấy giờ Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục ở vùng Chu Diên hưởng ứng đầu tiên. Tiếp theo là Tinh Thiều, Phạm Tu cùng hào kiệt nhiều nơi khác. Tinh Thiều cũng quê ở Thái Bình. Học giỏi, văn hay, nhưng vì không thuộc dòng dõi quý tộc nên Tinh Thiều chỉ được phong chức "canh cổng thành". Bất bình, ông không nhận chức, về quê cùng Lý Bí mưu tính khởi nghĩa. Lão tướng Phạm Tu, người Thanh Trì (Hà Nội), bấy giờ đã ngoài sáu mươi, vẫn cùng lớp trai làng hăng say việc nước.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ nổi dậy. Khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã chiếm được hầu hết các quận, huyện. Thứ sử Tiêu Tư run sợ, vội vã bỏ thành Long Biên (Yên Phong - Bắc Ninh) rút chạy về Trung Quốc. Lý Bí đem quân vào Long Biên, ổn định tình hình mọi mặt. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lương lập tức hạ lệnh cho quân phản công chiếm lại. Bọn xâm lược vừa kéo sang đã bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.
Đầu năm sau (543), vua Lương lại lệnh cho quân sang xâm lược lần nữa. Bọn tướng chỉ huy quân Lương lúc này vừa khiếp sợ, vừa mệt mỏi, đang còn dùng dằng chưa dám tiến quân, Lý Bí chủ động ra quân đón đánh địch ở bán đảo Hợp Phố (bấy giờ thuộc châu Giao). Quân Lương mười phần chết đến bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sót cũng bị vua Lương bắt phải tự tử.
3. Dựng nước Vạn Xuân độc lập (544)
Mùa xuân năm 544, sau khi đánh đuổi được quân đô hộ và đánh lùi hai lần phản công xâm lược của nhà Lương, Lý Bí tự xưng hoàng đế tức Lý Nam Đế. Lý Nam Đế lấy tên nước là Vạn Xuân (2), đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ (3) làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng quan võ, Tinh Thiều đứng đầu quan văn, Triệu Túc làm thái phó (chức quan cao, cột trụ của triều đình), Triệu Quang Phục là tướng trẻ, có tài, cũng được trọng dụng. Lý Nam Đế lại cho dựng một ngôi chùa đặt tên là chùa Khai Quốc (4).
4. Chống quân Lương xâm lược
Tháng 5 năm 545, vua Lương lại phái quân sang đánh Vạn Xuân. Bấy giờ, nhà Lương vừa đàn áp được những cuộc nổi dậy của nông dân Trung Quốc, đã dồn sức vào cuộc tấn công xâm lược lần thứ ba này. Dương Phiêu được cử làm thứ sử châu Giao cùng với Trần Bá Tiên, một viên tướng rất hiếu chiến, tổ chức cuộc xâm lược. Địch chia hai đường thủy, bộ phối hợp cùng tiến sâu vào nước ta.
Lý Nam Đế đem quân chống cự ở vùng Lục Đầu (thuộc Hải Dương) nhưng không cản được địch. Vua cho quân lui về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Song thành bằng đất, lũy bằng tre gỗ mới dựng không giữ được lâu. Quân địch đang mạnh, tấn công rất ác liệt. Thành Tô Lịch vỡ, lão tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế lại phải lui quân, ngược sông Hồng về giữ thành Gia Ninh (ở miền đồi núi Việt Trì). Quân Lương đuổi theo, vây hãm, chiếm được thành Gia Ninh (đầu năm 546). Lý Nam Đế cùng với tướng sĩ rút vào miền núi Phú Thọ.
Được sự ủng hộ tích cực của nhân dân các dân tộc, chỉ vài tháng sau Lý Nam Đế đã khôi phục được lực lượng, quân số lên tới vài vạn người, Lý Nam Đế lại đem quân và thuyền bè ra đóng ở hồ Điển Triệt.
Hồ Điển Triệt nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15km. Xưa có con ngòi thông sông với hồ, ba mặt đông, nam, bắc của hồ là các dải đồi cao, phía tây là những đồi thấp hơn và cánh đồng trũng. Từ sông Lô chỉ có một đường đi vào phía bắc của hồ. Thấy quân Lý Nam Đế xuất hiện, quân Lương từ Gia Ninh ngược sông Lô kéo lên tấn công.Bị đánh cản kịch liệt, quân Lương không tiến lên được, phải đóng ở giữa đồng trống. Quân lính mỏi mệt, tướng chỉ huy nhiều tên cũng chán nản. Nhưng Trần Bá Tiên vừa hung hăng vừa xảo quyệt. Nhân một đêm trời mưa to gió lớn, y đã thúc quân tràn vào đánh úp nơi Lý Nam Đế đóng quân. Không trở tay kịp, quân ta tan vỡ nhanh chóng.
Lý Nam Đế lại phải lui vào động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh vua là Lý Thiên Bảo, cùng Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) đem một cánh quân lui vào Thanh Hóa. Vua trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Hai năm sau, Lý Nam Đế mất.
5. Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân Lý Bí (503-548)
Tháng 2-544, ông tuyên bố dựng nước, đặt Quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng. Ông là người Việt Nam đầu tiên xưng Đế khẳng định chủ quyền và lòng tự hào dân tộc.
Ông đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng, Đại Đức theo sử Bắc hay Thiên Đức theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).
Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.
Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước. Cơ cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm (Ba Vì) "để phòng ngừa Di Lão".
Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới, theo chế độ tập quyền trung ương.
Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để làm nơi văn võ bá quan triều hội. Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, "chùa Mở Nước" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa! chùa Khai Quốc