Tham khảo:
Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, biết bao tên xâm lược đã nhòm ngó, hi vọng chiếm được mảnh đất nhỏ bé, kiên cường của dân tộc Việt Nam ta. Bọn chúng đến đây, kéo theo bọn tay sai bợ đỡ, đua nhau làm khổ dân ta. Chúng ta hãy dừng lại ở những năm hai mươi đầu thế kỉ XX. Bộ mặt xấu xa tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến đã được các nhà văn ghi lại bằng ngòi bút sắc sảo của mình. Hai văn bản sống chết mặc bay và Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu đã phần nào thể hiện rõ vấn đề nêu trên.
Trước hết, chúng ta dừng lại ở phạm vi giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Ngày xưa, dưới thời phong kiến, quan lại có trách nhiệm với các "con dân" như cha, mẹ của dân. Song, trong thực tế, dân gian có lời ca dao oán thán:
Con ơi! Nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Nghe ca dao, có thể chúng ta chưa tin. Có lẽ, ta sẽ theo bước chân tác giả Phạm Duy Tốn đến với "làng X, thuộc phủ X" vì nước sông Nhị Hà đang lên to quá, mà khúc đê vỡ! Nhưng đã có Nhà nước lo. Nhà nước đã cử một ông quan phụ mẫu (cha mẹ của dân) đến làng X để giúp dân hộ đê rồi. Văn bản sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã vẽ lại toàn bộ công cuộc đi giúp dân hộ đê của quan phụ mẫu đã xứng đáng với sự mong chờ mòn mỏi của dân chưa?
Quan đi hộ đê mà không cùng xuống chỗ đê xung yếu để hướng dẫn, chỉ huy dân, lại ở nơi cao ráo an toàn:
"... Thế thời nào quan cha mẹ ở đâu?... Thưa rằng đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn, năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì".
Quan đi giúp dân "hộ đê", mà chuẩn bị đồ dùng thức đựng, kẻ hầu người hạ như đi hội: đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng. Quan ngồi ở tư thế: Chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Tên nữa... chực hầu điếu đóm. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt, chốc lại phẩy. Chung quanh sập... thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì, chánh tổng... cùng ngồi hầu bài. Đồ dùng của quan cái gì cũng có: bát yến hấp đường phèn... khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi, trong ngăn đầy trầu vàng, cau đậu, rễ tía; ống thuốc bạc, đồng quản bút, tăm bông... trông mà thích mắt.
Quan đi giúp dân "hộ đê", mà lại ngồi ở trên đình cao, không quan tâm gì đến đê điều. Thật vô trách nhiệm! Hơn thế nữa, quan lại ngồi say mê chơi tổ tôm để ăn tiền. Cho nên "ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít", "nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm".
Nhưng đáng chú ý nhất, đáng phê phán nhất là thái độ vô trách nhiệm đến vô nhân đạo của quan phụ mẫu. Khi hai lần có người vào bẩm báo tình hình nguy cấp của khúc đê, quan không những thờ ơ, mà còn gắt, quát, dọa bỏ tù thằng nào vào bẩm báo. Lần một: "Ngài cau mặt, gắt: mặc kệ". Lần thứ hai quan lớn đỏ mặt tía tai, quát, dọa "ông cách cổ bỏ tù chúng mày" và cuối cùng đê vỡ "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở; kẻ chết không nơi chôn...".
Qua nhân vật quan phụ mẫu trong sống chết mặc bay có thể hình dung toàn bộ hệ thống quan lại vô trách nhiệm đến vô nhân đạo, toàn bộ hệ thống phong kiến thời đó thật tồi tệ, tàn nhẫn. Đó là những bọn người làm tay sai, bợ đỡ thực dân, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân.
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làngPhượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội),ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn.
Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 có ba khuynh hướng văn học chính là văn học cách mạng, văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Cùng với hai khuynh hướng kia, văn học hiện thực phát triển mạnh mẽ, màtiêu biểu là các tác giả Phạm Duy Tôn, Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố. Ba tác phẩm Sống chết mặc bay, Đồng hào có ma và Tắt đèn, tuy ra đời ở ba thời điểm khác nhau, nhưng chúng đã dựng lên một bức tranh sinh động về những bộ mặt thật của bọn quan lại, cường hào, địa chủ và tay sai.
Trước hết, chúng ta hãy xem bản chất của bọn quan lại phong kiến thời bấy giờ là gì. Chúng trước tiên là những kẻ hay xu nịnh. Chúng ta thử hỏi xem những tên như quan phụ mẫu trong sống chết mặc bay, tên huyện Hinh trong Đồng hào có ma, tên quan phủ Tư Ân trong Tắt đèn, liệu có phải vì chúng có tài đức gì nên mới được làm quan? Không, chúng chỉ là những tên dùng thủ đoạn đút lót quan trên để có những chiếc ghế đó, để nhiễu dân, vơ vét của dần. Khi đã được yên vị, chúng vẫn luôn bợ đỡ, nịnh nọt những ông Tây để leo cao hơn, cao hơn. Có thể nói, chúng chỉ là những kẻ dốt nát, nhờ xu nịnh mà được leo cao làm quan.
Bọn quan lại phong kiến cũng lại là những tên tàn ác vô lương tâm. Thì đấy “ông quan phụ mẫu” chính là như thế. Trong lúc nhân dân lo giữ đê để cứu làng, cứu mọi người, thì quan không lo làm trách nhiệm của quan là đốc thúc nhân dân, mà ung dung ngồi trong ngôi đình cao để chơi bài, ăn yến. Trong đó quan được kẻ dưới tâng bốc lên, rồi khi ù thì bọn kia (chỉ lũ hương lí, chần tay của quan) lại kêu lên: “Ngài giỏi thật”. Đến khi có người vào báo đê sắp vỡ, quan còn quát mắng kẻ đó phá niềm vui của “ngài” và đòi “cách cổ” hắn ta. Tệ hại hơn là quan còn thản nhiên, thậm chí vui vẻ, đúng vào lúc đê vỡ, khi “người sông không chỗ ở, người chết không chỗ chôn”, bởi khi ấy quan thắng ván bài. Cùng là người dân đất Việt, nhưng khi thấy đồng bào bị nạn, quan không mảy may xót thương, tấm lòng “phụ mẫu” đi đâu rồi? Như vậy chỉ bằng chi tiết đó, Phạm Duy Tôn đã đả kích mạnh mẽ cái sự vô lương tâm, cái tàn nhẫn đến mức không còn tính người của tên quan phụ mẫu và các loại người như hắn, Hắn mang danh là quan cha mẹ của dân, nhưng thực chất là sâu mọt chuyên đục khoét dân, còn tính mạng của dân thế nào thì quan thây kệ. Trong Tắt đèn chúng ta cũng thấy sự tàn nhẫn của bọn này. Mặc dù chúng không trực tiếp cầm roi, cầm,gậy hành hạ dân, nhưng hành động của chúng còn độc ác hơn. Chúng đặt ra thuế khóa nặng nề, một phần để cung phụng quan Tây, quan trên, còn lại thì vơ vào túi. Chính những thứ thuế đó đã phá tan bao gia đình chị Dậu, làm cho bao kẻ sống dở chết dở như anh Dậu, và làm cho mẹ con li tán, như mẹ con chị Dậu. Bộ mặt người mà lòng lang dạ thú của chúng thật đáng đem ra vạch trần. Và các tác giả đã vẽ lên được bộ mặt thật của chúng thật sắc sảo, tài tình.
Không chỉ dừng ở đó, chúng còn là bọn “cướp ngày”. Nhân dân ta có câu:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
quả là đúng. Chúng ta thử trông vào huyện Hinh mà xem, tại san ông ta “béo ơi là béo”? Chính là vì ông ta ăn bẩn! Tác giả đã tài tình làm sao khi dùng từ “ăn bẩn”. Đó là hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh đã bóc trần bộ mặt “cướp ngày” của hắn. Khi chị Nuôi đến công đường nhờ quan “đèn trời soi xét”, tìm cho ra kẻ trộm, nhưng lạ thay, quan ngồi yên như phỗng, và đến khi chị Nuôi vì sợ mà đánh rơi tiền, quan bỗng cử động. Đấy là cử động lấy chân giẫm lên đồng hào đôi của chị Nuôi. Thành ra chị không đủ một đồng lệ phí trình quan, đành ra về. Có thể chị biết “con ma” lấy tiền của chị đấy, nhưng dám làm gì? Bởi vậy màn kịch câm cuối câu chuyện này là một màn kịch thật xuất sắc. Nó đã lột trần bộ mặt “cướp ngày” một cách hèn hạ, bẩn thỉu của bọn quan lại bấy giờ.
Và nét cuối cùng trong bộ mặt thật của bọn quan lại mà các tác giả đã vẽ lên chính là sự dâm ô của chúng. Trong tác phẩm Tắt đèn, chúng ta biết đã có lúc chị Dậu bị bắt lên phủ vì tội “chống lại người nhà nước” là bọn tay sai của quan. Và trong lần đó, tên quan phủ Tư Ân đã lợi dụng cảnh ngộ của chị, bắt chị vào phòng hắn. Nhân lúc vợ vắng nhà, hắn định cưỡng hiếp chị. Mặc dù kết thúc cảnh đó là chị Dậu thoát được, nhưng bộ mặt dâm ô của hắn vẫn còn ghi rõ trong từng chữ của Ngô Tất Tố. Thế nhưng tránh lần này chị Dậu vấp phải lần khác. Đó là một đêm “tắt đèn”, vào cái dạo chị đi ở vú cho nhà quan tỉnh, quan cụ đã mò vào phòng chị và giở trò bỉ ổi.
Có thể nói rằng, thông qua những hình tượng quan lại điển hình đó, các tác giả văn học hiện thực đã vạch trần ra rằng: Bọn quan lại thời đó đều lồ hiện thân của bao cái xấu xa nhất trong xã hội bấy giờ - xu nịnh, độc ác, tàn bạo, bòn rút của dân không từ một cái gì và rất dâm ô.
Loại người thứ hai đáng lên án trong các tác phẩm này là bọn địa chủ cường hào. Về loại nhân vật này, không ai miêu tả tài tình bằng Ngô Tất Tố. Điển hình cho loại người này là vợ chồng Nghị Quế. Bọn này trước hết mang bản tính hách dịch. Chị Dậu vào nhà Nghị Quế để nói chuyện bán con, chúng cứ để cho lũ chó xông ra cắn chị. Thái độ thờ ơ như thế lại tiếp tục cho đến khi chị Dậu gặp mặt chúng. Chị quỳ ở cửa, còn bọn chúng thản nhiên lau mồm lau mép. Rồi đến khi vào việc trao đổi, Nghị Quế cậy quyền cậy thế, nói với chị Dậu mà như quát với súc vật. Chúng ta phải nói vậy vì từ lúc chị vào nhà hắn, hắn đâu có coi chị là con người. Thái độ đáng ghét của bọn địa chủ như Nghị Quế đã được Ngô Tất Tốvạch trần. Và không chỉ thế, chúng còn là loại người độc ác, tàn nhẫn. Chúng giàu nứt đốđổ vách mà chỉ có hơn hai đồng bạc chúng đã bắt chị Dậu đổi bằng chính đứa con của chị và cả một đàn chó mới đẻ. Rồi khi đã có được đứa ở mới là con chị Dậu, chúng bắt em phải bốc cơm của chómà ăn ngay trước mặt mẹ em. Chúng nhẫn tâm hành hạ một đứa trẻ và một người mẹ đã phải rứt ruột bán con. Có lẽ, mỗi dòng chữ Ngô Tất Tốviết ra là một nỗi căm giận hòa cùng nước mắt. Tóm lại, bọn địa chủ cường hào cũng lại là những kẻ điển hình cho loại người độc ác vô lương tâm và vô cùng hông hách.
Cuối cùng loại người thứ ba mà các tác giả đã dựng lên trong bức tranh xã hội là bọn tay sai. Bọn tay sai này cũng gian ác không kém gì chủ của chúng. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, tội ác do chúng gây ra không phải là ít. Chúng vào từng nhà dân, quát tháo ầm ĩ để đốc thúc dân nộp thuế. Nhà nào không đủ thuế thì chúng bắt người đem về hành hạ. Anh Dậu cũng chỉ vì một suất SƯU mà bị chúng đánh cho sông mà chỉ còn như một xác chết. Hành hạ một con người ốm đau đến như thế chỉ có bọn lang sói đội lốt người mới đang tâm làm. Đánh đập người ta đến khi moi được suất SƯU rồi chúng vẫn chưa hài lòng. Chúng còn đòi anh phải đương đầu với một thảm họa tiếp: nộp SƯU cho người em đã chết! Mặc dầu anh vừa mới tỉnh dậy sau những trận đòn trước, chúng vẫn sấn vào bắt trói anh, bỏ ngoài tai tất cả những lời van xin thảm thiết của vợ con người ta. Rồi chúng còn đánh cả một người phụ nữ thân cô thế cô. Chúng tát vào mặt chị Dậu, bịch mấy cái vào ngực chị. Hành động thô lỗ, cục cằn mà ác độc đó thử hỏi người thường có ai làm được, nếu không phải là loài cầm thú. Giống như quan thầy của chúng, bọn tay sai này cũng ăn “cướp ngày” như ranh. Chị Nuôi, người đàn bà nghèo kiết xác, đến công đường, chúng cũng bắt đưa tiền, không đưa thì chắc chắn là ở ngoài cổng. Đưa rồi cũng chưa chắc được việc. Bằng chứng là chị Nuôi đưa tiền rồi lỉnh mất! Bản chất tráo trở, lừa lọc của chúng, tuy chỉ được vẽ qua bằng vài nét như vậy, nhưng cũng đủ cho thấy chúng thật đáng nguyền rủa.
Tóm lại, qua ba tác phẩm truyện ngắn sống chết mặc bay, Đồng hào có ma và Tắt đèn, ta thấy đáy chính là bức tranh tổng hợp. Nhưng không phải là một bức tranh đẹp, mà hiện lên trong tranh là những bộ mặt dãman, tàn bạo, toàn một bọn mình người mặt quỷ dữ. Đó là bọn quan lại, cường hào địa chủ và tay sai, bọn người đã gây bao đau thương cho dân nghèo làng quê ta xưa kia. Với ba thiên truyện ngắn này, các tác giả đã vạch trần những bản chất độc ác vô lương tâm, bốc lột dân nghèo đến tận xương tủy, hạch sách dân chúng đủ điều. Và do đó, chúng ta càng càm ghét chúng bao nhiêu thì chúng ta càng khâm phục các tác giả bấy nhiêu.