Văn bản ngữ văn 10

Shino Asada

2. Chọn 1 phân cảnh trong truyện"Chuyện An Dương và Mị Châu, Trọng Thủy" để chuyển thể (đóng kịch, vẽ tranh, làm thơ,...)

B.Thị Anh Thơ
22 tháng 8 2019 lúc 12:27

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có "Tấm Cám", truyện ngụ ngôn có "Thầy bói xem voi" thì truyền thuyết có "Ta và Mị Châu - Trọng Thủy". Truyền thuyết là "nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng các hình tượng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phương, quốc gia, dân tộc... Nếu lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó." Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại. Truyền thuyết "Ta và Mị Châu, Trọng Thủy", trích truyện "Rùa Vàng" trong "Lĩnh Nam chích quái", đã nói lên chiến công của ta là vua Âu Lạc xây thành, chế nỏ, giữ nước thành công và bi kịch tình yêu của Mị Châu gắn liền bi kịch mất nước của ta.

Trong buổi đầu dựng nước, ta đã rất có công với dân tộc. Ta cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ta bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ta dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ta, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ta đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ta còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho ta một cái vuốt. Ta đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng ta quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.

Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn của ta. Khi Đà sang cầu hôn, ta đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.

"Một đôi kẻ Việt người Tàu

Nửa phần ân ái nửa phần oán thương"

"Một đôi kẻ Việt người Tàu" lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng ta không hề màng tới điều đó. Có lẽ ta chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ta không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ta nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ta đã đưa cả cơ đồ "đắm biển sâu".

Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, ta dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ta "vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: 'Đà không sợ nỏ thần sao?'" ta đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ta mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam. Trong lúc cấp bách, ta chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ta còn không nhận ra được đâu là giặc, ta chỉ ngửa mặt kêu "trời" mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!" thì ta đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ta là một vị minh quân. Ta đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí. Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ta. Khi ta không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ta lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bảo ta và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ta. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết "vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển" đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ta về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?

Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của ta mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại "vô tư" đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa "tình nhi nữ" và "việc quân vương". Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ "tòng" thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha. Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu: "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là "người một nhà". Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp: "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau". Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình.

"Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn

Những chiếc lông không tự biết giấu mình"

Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối. Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói: "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã "vô tình" đưa nước Việt vào một ngàn năm nô lệ.

Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như ta "nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà". Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong "Tâm sự" đã nói:

"Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu

Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống

Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng

Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào

Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu

Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác

Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước

Nên em ơi ta đành tự nhắc mình"

Bình luận (0)
Diệu Huyền
21 tháng 8 2019 lúc 18:36

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có "Tấm Cám", truyện ngụ ngôn có "Thầy bói xem voi" thì truyền thuyết có "Ta và Mị Châu - Trọng Thủy". Truyền thuyết là "nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng các hình tượng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phương, quốc gia, dân tộc... Nếu lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện và nhân vật đó." Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại. Truyền thuyết "Ta và Mị Châu, Trọng Thủy", trích truyện "Rùa Vàng" trong "Lĩnh Nam chích quái", đã nói lên chiến công của ta là vua Âu Lạc xây thành, chế nỏ, giữ nước thành công và bi kịch tình yêu của Mị Châu gắn liền bi kịch mất nước của ta.

Trong buổi đầu dựng nước, ta đã rất có công với dân tộc. Ta cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ta bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ta dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ta, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ta đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ta còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho ta một cái vuốt. Ta đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng ta quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.

Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn của ta. Khi Đà sang cầu hôn, ta đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.

"Một đôi kẻ Việt người Tàu

Nửa phần ân ái nửa phần oán thương"

"Một đôi kẻ Việt người Tàu" lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng ta không hề màng tới điều đó. Có lẽ ta chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ta không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ta nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ta đã đưa cả cơ đồ "đắm biển sâu".

Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, ta dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ta "vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: 'Đà không sợ nỏ thần sao?'" ta đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ta mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam. Trong lúc cấp bách, ta chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ta còn không nhận ra được đâu là giặc, ta chỉ ngửa mặt kêu "trời" mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: "Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!" thì ta đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ta là một vị minh quân. Ta đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí. Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ta. Khi ta không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ta lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bảo ta và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ta. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết "vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển" đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ta về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?

Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của ta mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại "vô tư" đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa "tình nhi nữ" và "việc quân vương". Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ "tòng" thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha. Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu: "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là "người một nhà". Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp: "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau". Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình.

"Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn

Những chiếc lông không tự biết giấu mình"

Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối. Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói: "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù". Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã "vô tình" đưa nước Việt vào một ngàn năm nô lệ.

Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như ta "nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà". Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong "Tâm sự" đã nói:

"Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu

Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống

Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng

Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào

Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu

Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác

Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước

Nên em ơi ta đành tự nhắc mình"

Bình luận (0)
Xin Lỗi 1 Tình Yêu
21 tháng 8 2019 lúc 19:10

Hôm nay, ta thành thật thú nhận tội lỗi của mình đã vô tình để xảy ra cho đất nước nhân dân Âu Lạc một quộc chiến tranh mà đáng lẽ không thể có.

Ta là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy: Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu Đà.

Một ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thường.

Một thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói:

- Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?

- Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.

- Hiền thê đà có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ đáp.

Ta lại nói tiếp:

- Được rồi, con cứ đến thăm vợ con đi.

Hắn kính cẩn chào:

- Xin phép nhạc phụ, con đi.

Tất cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".

Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống biển.

Đây là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ mình.

Bình luận (0)
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
21 tháng 8 2019 lúc 21:31

Tham khảo :

"Ngựa lướt vầng dương thành sầm tối,
Sừng tê rẽ nước giữa ban ngày.
Móng rùa mưu rễ đem đi mất
Lông ngỗng lòng con ai biết đây?
Sông núi lệ tuôn trai ngọc kết,
Oan khiên khôn lấp giếng xưa đầy.
Phách hồn trinh trắng còn không mất,
Cờ quế đêm mưa gió lắt lay!"

- Con nghe bài thơ ấy từ đâu vậy?
- Con nghe từ mọi người trong làng. Nhưng bài thơ này nói về điều gì vậy thưa mẹ?
- Ôi con trai của ta! Mẹ sẽ kể cho con nghe một câu chuyện. Chỉ một mình con mà thôi! Câu chuyện bí ẩn cuối cùng của vương quốc Âu Lạc.

Năm 257 trước công nguyên, nước Âu Lạc được hình thành và cai trị bởi một vị vua anh minh, tài giỏi tên là An Dương Vương. Vua chăm lo cho dân chúng, nhanh chóng tiến hành xây dựng thành phòng thủ. Nhưng không hiểu vì lý do gì, hễ đắp tới đâu thì đất lại lở ra đến đấy. Vua lo lắng, lập đàn trai giới để cầu xin bách thần. Thấy vua một lòng vì giang sơn xã tắc, sứ Thanh Giang là Rùa Vàng đã dùng phép giúp vua xây thành chỉ trong nửa tháng. Thành ấy có hình xoắn ốc, tên gọi là Quỷ Long thành hay còn gọi là thành Cổ Loa. Trước khi trở về, sứ Thánh Giang tháo vuốt ban cho An Dương Vương để chế tạo vũ khí chống quân xâm lược. Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm lẫy. Nỏ thần một lần có thể bắn ra hàng trăm mũi tên, "bách phát bách trúng", nên được gọi là "Linh Quang Kim Quy thần cơ".

Một lần, Triệu Đà- kẻ tham lam và xảo trá- từ phương Bắc cử quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương dùng nỏ thần chiến đấu, quân Triệu Đà thua lớn, rút về núi Trâu Sơn đắp luỹ rồi xin hoà. Không lâu sau, Triệu Đà cho Trọng Thuỷ là con trai mình đến hoà thân với công chúa Mị Châu xứ Âu Lạc. Chỉ nghĩ đến việc xây dựng hoà bình, không suy xét, vua An Dương Vương liền chấp thuận. Trọng Thuỷ là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tướng mạo thanh cao, trông có vẻ không phải là một người có tâm địa ác độc như cha của chàng. Có lẽ vì thế mà vua An Dương Vương và công chúa tin tưởng, yêu mến Trọng Thuỷ không một chút nghi ngờ. Mị Châu đã dẫn Trọng Thuỷ xem hết các ngõ ngách của loa thành. Trọng Thuỷ ngỏ ý muốn xem nỏ thần, Mị Châu đã lấy nỏ thần cho chồng xem rồi sai người đem cất đi.
Một thời gian sau, Trọng Thuỷ đột ngột xin về thăm cha. Trước đêm khởi hành, Trọng Thuỷ gặp Mị Châu và nói rằng:
- Tình phu thê đến bạc đầu cũng không nỡ chia lìa, nhưng nghĩa mẹ cha là máu chảy trong tim, lại không thể dứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha, đường đi xa xôi, hiểm trở ngàn dặm. Nếu lỡ hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta quyết tìm nàng, lấy gì làm dấu?
- Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng hay mang trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông ngỗng làm dấu, nhất định ta sẽ đoàn tụ!- Mị Châu nghẹn ngào đáp lại.
Trọng Thuỷ cài lên mái tóc của Mị Châu một cây trâm khắc hình đôi uyên ương bằng ngọc thạch. Chàng nhìn Mị Châu bằng đôi mắt tràn ngập tình yêu nhưng phảng phất một nỗi buồn sâu thẳm:
- Đây là cây trâm do chính ta làm tặng nàng. Đôi uyên ương này là minh chứng cho tình yêu giữa hai ta. Hãy tin tưởng ta, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, có được không?
- ...Chàng sẽ phản bội ta và đức vua, có đúng không?- Mị Châu khẽ hỏi với hai dòng nước mắt lăn trên má.
Trọng Thuỷ cố cất giấu sự ngạc nhiên bằng ánh nhìn đầy chân thành. Chàng nhẹ nhàng ôm Mị Châu vào lòng và thầm thì vào tai nàng:
- Không bao giờ!
Công chúa mỉm cười, dựa đầu vào vai Trọng Thuỷ, bàn tay siết chặt đôi vai vững chãi của chàng. Họ thề nguyện một lòng chung thuỷ và rồi chia tay trong nước mắt dưới sự chứng giám của ánh trăng đêm hôm ấy.

Ba tháng sau khi Trọng Thuỷ về phương Bắc, Triệu Đà bất ngờ cầm quân tiến công, xâm chiếm Âu Lạc lần thứ hai. An Dương Vương nghe tin liền cười và nói rằng: “ Đà không sợ nỏ thần của ta sao?”. Vua vẫn ngồi đánh cờ một cách điềm nhiên. Khi quân của Triệu Đà đã đến sát thành, An Dương Vương bỗng nhận ra nỏ thần đã bị đánh tráo. Không còn đủ bình tĩnh, vua An Dương Vương xô cả chồng sách sử kí vào lò lửa rồi hét lớn:
- Trọng Thuỷ! Chính ngươi đã làm việc này! Ta nguyền rủa ngươi!
Không còn nỏ thần, An Dương Vương cùng Mị Châu leo lên ngựa chạy về phương Nam.Trên đường đi, Mị Châu không quên rắc lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thuỷ. Ngựa chạy đến bờ biển, thấy không còn đường thoát, An Dương Vương cầu cứu sứ Thanh Giang. Sứ Thanh Giang hiện lên, kết tội Mị Châu: "Chính người ngồi sau ngựa mới là giặc!". Mị Châu hoảng hốt, ngã ngựa, sụp lạy dưới chân An Dương Vương nức nở rằng:
- Nếu con có một lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu con có một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối, chết sẽ biến thành ngọc châu để rửa sạch mối nhục thù!
An Dương Vương nhìn con mình bằng ánh mắt ngỡ ngàng rồi đến căm phẫn, nhưng sâu thẳm trong ánh mắt ấy là nỗi đau khổ đến tột cùng. An Dương Vương gào thét trong đau đớn:
- Ta không có đứa con như ngươi!
Nói xong, An Dương Vương rút kiếm lao thẳng đến người Mị Châu. Nhưng mũi kiếm ấy đã dừng lại! Một màu đỏ thẫm bao phủ khắp thanh kiếm, mùi máu tanh chết chóc tản đi khắp không gian mịt mù. Thì ra Trọng Thuỷ đã kịp lấy thân mình đỡ nhát kiếm ấy cho công chúa.
- Ngài nhẫn tâm đến mức giết chết con gái và cả đứa cháu chưa kịp chào đời của mình hay sao?!- Trọng Thuỷ hét vang trời rồi ngã gục xuống đất.
An Dương Vương buông kiếm, khuỵ đầu gối xuống, chưa định thần được chuyện gì đang xảy ra. Mị Châu run rẩy ôm Trọng Thuỷ vào lòng mà nấc nghẹn:
- Tại sao?...Tại sao lại đỡ gươm? Lưỡi gươm ấy phải dành cho ta... là kẻ đã hại đất nước vì quá tin chàng...Chàng đã dối ta!
- Không! Công chúa của ta ơi! Ta chưa một lần lừa dối nàng! Chưa bao giờ!
- Chàng đột ngột trở về phương Bắc. Không lâu sau thì cha chàng kéo quân xâm lược Âu Lạc, nỏ thần cũng bị đánh tráo! Không phải chàng làm hay sao?!
-Ta không làm chuyện đó! Lần này trở về phương Bắc, cốt là để ta thuyết phục cha từ bỏ ý định thâu tóm Âu Lạc. Nhưng không ngờ, cha ta đã phòng tính trước sẽ có ngày ta làm như vậy nên đã sớm cho người trà trộn vào lính canh gác thành Cổ Loa để đánh tráo nỏ thần. Ta không thể ngăn cản, lập tức dẫn quân cứu nàng và đức vua. Thật không ngờ...ta xin lỗi...Mị Châu!- Trọng Thuỷ gắng giải thích với chút sức lực cuối cùng.
Mị Châu đau buồn vì đã hiểu lầm Trọng Thuỷ, quyết cùng chết với chàng, nàng rút cây trâm trên đầu do Trọng Thuỷ tặng toan đâm vào cổ tự tử thì Trọng Thuỷ lấy tay mình ngăn lại. Chàng ứa nước mắt và thì thào rằng:
- Đừng! Ta cầu xin nàng! Nỗi đau lớn nhất cuộc đời ta là không bảo vệ được cho thê tử. Nàng phải sống vì con của chúng ta.- Trọng Thuỷ nhìn lên trời, khuôn mặt chàng trắng bệch không còn sức sống- Hãy đặt tên con là Tự Vĩnh, nghĩa là mãi mãi...ta...yêu...nàng!

Trọng Thuỷ chết nhưng mắt chàng không hề nhắm lại. Cây trâm uyên ương nhuốm máu như chính bi kịch tình yêu của họ. Mị Châu đau đớn hôn lên đôi môi của Trọng Thuỷ. Nước mắt đôi uyên ương hoà quyện vào nhau rửa sạch mọi mùi tanh dơ bẩn của oan ức và thù hận. Trời đổ cơn mưa. Có lẽ ông trời cũng xót xa trước cảnh tượng đau lòng ấy!
Xác Trọng Thuỷ tan vào làn mưa, biến thành cơn gió quấn lấy Mị Châu và An Dương Vương đưa đến núi Tây Sơn.
- Xin hãy tha thứ cho cha!- Vua An Dương Vương buồn rầu nói với Mị Châu.
Vua An Dương Vương đặt tay lên bụng Mị Châu rồi nói với đứa trẻ trong bụng nàng rằng:
- Nhân dân Âu Lạc, ta giao phó cho con!
Nói xong, An Dương Vương hoá rồng, bay lên tận trời cao vĩnh viễn dõi theo dân tộc Lạc Hồng.

Tại làng Hoả Long trên núi Tây Sơn có đồn đại một lời tiên tri rằng:"Nơi đây sẽ có một vị anh hùng được sinh ra và gắn kết nhân dân Đại Việt". Đó là lời tiên tri cuối cùng...Từ đó, không còn ai nghe thấy điều gì nữa…

-Một câu chuyện buồn, mẹ nhỉ? Mẹ đang khóc đó sao?
- Không, chỉ là Gió làm cay mắt của mẹ thôi. Chúng ta cùng về nhà nào, Tự Vĩnh!

Bình luận (0)
kayuha
21 tháng 8 2019 lúc 22:37

Hôm nay, ta thành thật thú nhận tội lỗi của mình đã vô tình để xảy ra cho đất nước nhân dân Âu Lạc một quộc chiến tranh mà đáng lẽ không thể có.

Ta là An Dương Vương, vị vua đã xây nên thành Cổ Loa bền vững và đã được thần Kim Quy trao tặng cái lẫy thần nên giữ được bình yên cho muôn dân. Lúc đó, Triệu Đà sang xâm lược nhiều lần nhưng hắn phải thất bại trước cái nỏ thần linh thiêng kì diệu ấy: Chỉ cần một mũi tên bắn ra là có biết bao quân sĩ gục ngã. Tức giận, hắn chờ đợi thời cơ; còn ta tự đắc trước những chiến công nên không dè dặt nghĩ đến những âm mưu hiểm độc của Triệu Đà.

Một ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. Nhưng đối với ta, Trọng Thủy có vẻ hơi khác thường.

Một thời gian, Trọng Thủy xin phép về thăm cha rồi không bao lâu quay trở lại. Ta cho quân bày yến tiệc và rót rượu cho Trọng Thủy nhưng hắn từ chối. Ngược lại, hắn lại mời ta uống liên tiếp đến nỗi ta say mèm chỉ thoáng thấy bóng hắn vụt qua rồi ta không biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại, ta thấy Trọng Thủy đang ngồi bên cạnh ta cung kính nói:

- Thưa nhạc phụ, người đã khỏe chưa?

- Ta khỏe rồi. Sao con không đến với Mị Châu? Ta thì thào.

- Hiền thê đà có nô tì chăm sóc rồi! Hắn nhỏ nhẹ đáp.

Ta lại nói tiếp:

- Được rồi, con cứ đến thăm vợ con đi.

Hắn kính cẩn chào:

- Xin phép nhạc phụ, con đi.

Tất cả những nghi ngờ trong ta từ trước đến nay đã tan biến hết. Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".

Ta quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống biển.

Đây là câu chuyện sự thật của đời ta, của vua An Dương Vương đã không cảnh giác trước kẻ thù nên cơ nghiệp bị sụp đổ. Ta mong rằng những kẻ kế vị sau này xem đây là bài học xương máu mà giữ mình.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Thị Thu Trng
Xem chi tiết
ABCXYZ
Xem chi tiết
Hồ Thị Phong Lan
Xem chi tiết
phùng thị thùy trang
Xem chi tiết
Su bin
Xem chi tiết
Thuỳ Linh
Xem chi tiết
Nguyễn thị Phụng
Xem chi tiết
trần thị giang
Xem chi tiết
Nguyễn Sinh Hùng
Xem chi tiết