Tham khảo:
Câu 1:
Tôi lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng không may cha tôi đã qua đời từ sớm. Tôi sống cùng mẹ và một chị gái cùng cha khác mẹ tên là Tấm. Mọi việc trong nhà, mẹ tôi đều bắt chị Tấm làm. Từ bé tôi đã sống sung sướng, quen được mẹ nuông chiều nên tôi chẳng phải làm việc gì nhiều, tôi chỉ ăn, ngủ và chơi, chẳng bù với chị Tấm, phải làm việc suốt cả ngày. Tôi và mẹ thay nhau mắng mỏ, ức hiếp Tấm. Tôi biết con Tấm ấy cực khổ, uất ức lắm nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, điều đó làm tôi sung sướng và hạnh phúc biết bao.
Có một hôm mẹ gọi chúng tôi lại và bảo: "Này hai con, hai con hãy đi bắt cua đứa nào bắt được nhiều thì ta cho chiếc yếm đỏ, còn không bắt được cua thì nhớ trận đòn roi đang chờ sẵn"
Chị Tấm hí hửng đi ngay và cố gắng chăm chỉ bắt được một giỏ cua đầy. Tôi mải mê rong chơi bắt bướm mà quên biếng đi mất. Tới giờ về, giỏ chị Tấm đầy cá cua, còn giỏ tôi thì trống không, lúc đó, tôi nghĩ ra một kế. Khi về tới ao đầu làng thì tôi gọi chị lại và nói: "Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng". Chị nghe lời tôi liền đi ra chỗ sâu gội lại đầu tóc, tôi hí hửng trút hết tôm tép từ giỏ chị qua giỏ mình rồi chạy vội về nhà lấy yếm đỏ từ mẹ. Chị Tấm về nhà với cái giỏ trống không, dĩ nhiên chị bị mẹ cho một trận còn tôi thì hí hửng với yếm mới.
Từ ngày đó, mẹ tôi thấy Tấm hay dành một bát cơm mang ra giếng sau khi ăn, liền sinh nghi sai tôi đi rình. Biết được sự thật, hôm sau mẹ tôi bảo Tấm đi chăn trâu nơi xa, ở nhà mẹ con tôi bắt cá bống của chị Tấm lên ăn. Về nhà thấy không còn cá bống, chị Tấm lại khóc. Ôi, chị gì mà yếu đuối, tối ngày chỉ biết khóc thôi.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội. Hai mẹ con tôi cũng đi dự. Chị Tấm muốn đi dự hội, thế là mẹ tôi trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt chị ở nhà nhặt cho xong. Mặc kệ chị khóc lóc, mẹ con tôi vẫn hí hửng đi. Tôi gặp lại chị Tấm ở dạ hội, chị xinh đẹp đến nỗi tôi và mẹ nhìn không ra, lòng tôi dấy lên nỗi ghen tức, về nhà tôi phải bắt nạt chị cho bõ ghét.
Nghe tin vua tuyên bố: "Hễ đàn bà con gái nào dự hội ướm vừa chiếc hài này thì vua sẽ cưới làm vợ." Ai cũng tranh nhau ướm thử nhưng không vừa. Mẹ con tôi cũng vậy. Đến lượt chị Tấm ướm thử thì vừa như in. Nhà vua cho đem kiệu rước Tấm về cung làm vợ mình trước con mắt hằn học của mẹ con tôi.
Ngày giỗ cha, chị Tấm về ăn giỗ. Mẹ tôi bảo chị trèo cây cau, hái cau cúng cha. Đang khi Tấm ở trên ngọn cau thì ở dưới mẹ tôi lấy dao chặt cây làm Tấm té mà chết. Tôi lấy quần áo Tấm mặc rồi vào cung thay chị.
Từ ngày chị Tấm mất, vua suốt ngày quấn quýt với chim vàng anh, tôi tức tối về mách mẹ. Mẹ tôi bảo bắt chim đem cho mèo ăn, chôn lông chim ngoài vườn, Chẳng bao lâu nơi đó mọc lên một cây xoan đào, xum xuê tươi tốt. Vua thấy đẹp nên sai người mắc võng vào cây hóng mát nên rất quý cây. Mẹ tôi xui chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Lúc ngồi dệt vải, tôi nghe con ác trên khung cửi kêu: "Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra." Nghe lời mẹ chỉ, tôi đốt khung cửi rồi đổ tro bên đường xa cung vua mong sẽ được yên thân.
Ngày vua đón Tấm trở về cung, tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Không những Tấm vẫn còn sống mà lại trắng đẹp hơn xưa nên tôi băn khoăn tự hỏi vì sao cùng với lòng ghen tức. Tấm bày cho tôi tắm với nước sôi thì sẽ đẹp. Tôi hí hửng làm theo thì chết tức khắc. Nghe tin tôi chết, mẹ cũng uất lên mà chết theo tôi.
Nếu biết trước có ngày hôm nay thì ngày xưa tôi đã đối xử tốt với chị Tấm, giờ tôi mới hiểu ra ý nghĩa câu nói "gieo gió gặt bão".
Câu 2
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa"
Câu thơ của Lâm Thị Vỹ Dạ đã cho thấy tình yêu sâu sắc của tác giả đối với những câu chuyện dân gian cổ xưa của dân tộc. Bởi vì trong mỗi câu chuyện lại chứa đựng rất nhiều những triết lý nhân sinh về cuộc đời và con người. Với tác phẩm "An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy", dân gian đã mang đến sự xót xa về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu. Từ đó, rung lên trong lòng độc giả những dư âm sâu lắng.
Trong truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, hai bi kịch đan lồng vào nhau tạo nên một cốt truyện kịch tính, gay cấn nhưng cũng không kém phần đau thương, xót xa. Cả vua An Dương Vương và công chúa Mị Châu đều rơi vào bi kịch bởi chính niềm tin mù quáng của mình. Cả hai đã lầm lỡ khi tin vào chính kẻ đã lừa mình để cướp Nỏ thần, cướp nước và phản bội lại tình nghĩa vợ chồng. Dân gian thật sâu sắc khi khắc họa những hình tượng nghệ thuật độc đáo, vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
Bi kịch mất nước có nguồn gốc từ mâu thuẫn lợi ích và tham vọng giữa Triệu Đà và An Dương Vương. Với tầm nhìn chiến lược, An Dương Vương đã nhìn thấy Cổ Loa là một vùng đất trù phú, tốt tươi có địa hình bằng phẳng, rộng rãi và thuận lợi cho việc giao thương buôn bán. Bởi vậy, ông quyết định cho dời kinh đô về Cổ Loa và tiếp tục sự nghiệp kiến thiết đất nước của cha ông. Được sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ông đã xây dựng Loa Thành với chín vòng kiên cố, đảm bảo an toàn và vô cùng vững chãi. Đặc biệt, Rùa Vàng còn giúp An Dương Vương đánh bại kẻ thù là Triệu Đà với âm mưu xâm lược và cướp nước. Khung cảnh tươi sáng, phồn thịnh của nước Nam hiện ra vô cùng đẹp đẽ với một vị vua anh minh sáng suốt. Vậy nhưng, chưa được bao lâu, toàn thể nhân dân nói chung và vua An Dương Vương nói riêng bị rơi vào bi kịch mất nước.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương mở đầu bằng việc Vua đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà, gả công chua Mị Châu cho con trai của hắn là Trọng Thủy. Triệu Đà là một tên lòng dạ tàn độc, sau khi bị bại trận trước An Dương Vương, hắn không cam lòng chịu thua trận và nhục nhã. Bởi vậy, hắn đã tìm đủ mọi cách, thương thuyết bằng bao lời ngon ngọt và thiện ý hòa hoãn để đưa Trọng Thủy đến cầu thân Mị Châu nhưng thực chất là dùng con trai làm gián điệp cho mình.
Tuy là một vị vua anh minh nhưng vì mong muốn đất nước được hoà bình mà mang tâm thế chủ quan, khinh địch, An Dương Vương đã đồng ý gả con gái cho Trọng Thủy mà không mảy may nghi ngờ. Ông hoàn toàn không hề biết, mình đã giao trứng cho ác và châm ngòi cho bi kịch mất nước.
Tin vào lựa chọn của vua cha, nàng Mị Châu xinh đẹp đã không mảy may nghi ngờ người chồng của mình. Cùng chung sống dưới một mái ấm với Trọng Thủy, nàng hết mực yêu thương người chồng của mình và luôn làm tròn bổn phận của một người vợ. Còn Trọng Thủy, hắn vẫn giữ kín bộ mặt thật giả tạo của mình mà không để cho ai phát hiện. Nhờ vậy, hắn đã tìm được cách đánh cắp Nỏ thần một cách hoàn hảo và chờ thời cơ đánh bại An Dương Vương.
Không giống như lần đầu, khi quân Triệu Đà kéo sang xâm lược lần hai, An Dương Vương vẫn bình thản chơi cờ vì nghĩ rằng không kẻ nào có thể đánh bại được Nỏ thần. Quân của Triệu Đà ngang nhiên xông vào thành vô cùng hung bạo, chúng càn quét khiến cho người dân điêu đứng. Lúc này, An Dương Vương mới đi tìm nỏ thần nhưng Nỏ thần đã không còn sử dụng được nữa. Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị đánh tráo từ lâu. An Dương Vương hoảng loạn vội vã đưa con gái Mị Châu đi trốn nhưng quân giặc đã ráo riết đuổi theo phía sau lưng. Ra đến biển lớn, bị dồn vào đường cùng, An Dương Vương chỉ còn cách nhờ Rùa Vàng ngoi lên giúp đỡ. Thế nhưng, đau lòng thay, nước đã không cứu được, chính bản thân ông lại phát hiện ra bí mật động trời. Hóa ra bấy lâu nay Trọng Thủy chính là gián điệp giúp Triệu Đà có được Nỏ thần và đau lòng hơn, chính Mị Châu - con gái ông đã giúp Trọng Thuỷ lấy Nỏ thần, trên đường chạy trốn còn rải lông ngỗng khiến quân giặc tìm đến ông một cách dễ dàng. Quá đau lòng cùng sự thức tỉnh muộn màng, An Dương Vương đã giết chết con gái mình rồi theo thần Kim Quy xuống biển. Đó là sự trả giá cho những lỗi lầm mà một vị vua đã gây ra cho dân tộc.
Truyền thuyết còn nói về bi kịch tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Mị Châu là nàng công chúa hồn nhiên, ngây thơ, được sống bao bọc trong nhung lụa và sự yêu thương, che chở của vua cha. Cuộc đời nàng bước sang một trang mới khi nghe theo lời vua cha lấy Trọng Thủy làm chồng. Trong những năm tháng chung sống dưới một mái ấm, cả hai người đã nảy sinh trong nhau tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Mị Châu trải qua những tháng ngày hạnh phúc, đắm chìm trong tình yêu và cảm nhận thứ tình cảm thủy chung của một người vợ dành cho người chồng của mình. Chính vì thế, dù là con trai của kẻ thù nhưng nàng vẫn không mảy may nghi ngờ Trọng Thủy. Và có lẽ, đó chính là những ngày tháng hạnh phúc nhất của hai người.
Tuy vậy, tình yêu của Trọng Thủy dành cho Mị Châu không đơn thuần và trong trắng như nàng dành cho chàng. Nếu trước đây, Trọng Thủy cưới Mị Châu chỉ là làm theo lời căn dặn của vua cha với âm mưu làm nội gián và ăn cắp Nỏ thần thì sau này, trong chàng đã nảy sinh tình yêu với cô công chúa nước Nam. Trong lòng Trọng Thủy vô cùng mâu thuẫn giữa một bên là tình yêu và một bên là bổn phận đối với dân tộc. Và cuối cùng, chàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu, làm tổn thương người vợ đầu ấp tay kề với mình để trả thù cho vua cha. Trọng Thủy đã lừa dối Mị Châu để ăn cắp nỏ thần và bí mật đưa về nước. Khi chiến tranh xảy ra, mặc dù rơi vào hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc nhưng Mị Châu vẫn không hề nghi ngờ người chồng của mình. Ngược lại, nàng vẫn tin tưởng, rải lông ngỗng trên đường đi trốn để mong Trọng Thủy sẽ đến cứu mình. Nhưng chao ôi, Mị Châu quả thật đáng thương khi đặt niềm tin của mình lẫm chỗ. Đến cuối cùng, nàng mới nhận ra sự thật vì tất cả đã muộn. Tình yêu sâu nặng mà nàng dành cho chàng hóa thành nỗi đau và niềm hận thù không bao giờ nguôi cạn. Từ một đôi trai tài gái sắc bỗng trở thành bi kịch tình yêu khiến ai cũng vô cùng thương xót.
Để hóa giải cho bi kịch tình yêu và đặt ra bài học nhân sinh có ý nghĩa, dân gian đã nghĩ ra chi tiết ngọc trai - giếng nước. Trọng Thủy sau khi Mị Châu chết đã quá đau lòng nhảy xuống giếng tự vẫn. Máu Mị Châu chảy xuống biển biến thành ngọc châu, khi lấy ngọc ấy rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy tự vẫn thì càng sáng đẹp hơn. Chi tiết này cho thấy tấm lòng của Mị Châu và Trọng Thủy, dù đã hóa kiếp nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi. Bởi suy cho cùng, tình yêu không có lỗi, lỗi là ở hoàn cảnh hai người quá khác nhau mà thôi. Trọng Thủy cuối cùng cũng phải trả giá. Dù mang về lợi ích cho dân tộc nhưng chàng mãi mãi mất đi người vợ mình yêu thương nhất, cũng như tình yêu sâu nặng nhất cuộc đời. Hình ảnh ngọc trai - giếng nước qua đó cũng minh oan cho tấm lòng trong sạch của nàng Mị Châu và thể hiện sự tha thứ của dân gian đối với nàng.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy mặc dù mang hai bi kịch: Bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu nhưng vẫn để lại cho độc giả những bài học nhân sinh sâu sắc về con người và cuộc đời.
1)
Tôi là Cám, tôi sống với mẹ tôi và con của dượng tôi vì bố nó chết lâu rồi nên mẹ con tôi nuôi nó. Nhưng tôi cũng không ưa nó lắm vì nó lúc nào cũng ra vẻ làm chị. Hàng ngày nó cũng khá chăm chỉ vì việc nhà, tôi thấy cũng cỏn con: cho lợn ăn, chăn châu, nấu cơm, giặt quần áo… Tôi thấy ít việc đó nó làm hợp hơn tôi vì tôi còn bận chọn vải may quần áo và đi làm tóc tai. Tôi đang tuổi đôi mươi mà!
Có hôm mẹ tôi giao cho hai đứa công việc, mỗi đứa một giỏ để đi bắt đầy giỏ tôm cua. Đứa nào nhanh chân thì được cái yếm đỏ mẹ tôi mới mua đẹp mê hồn. Nhưng tôi thì có biết lội ao hồ bao giờ, bẩn hết quần áo mất. Con Tấm thì cứ tìm tìm mò mò đến bao giờ mới xong? Mình cứ đi hái hoa bắt bướm tí đã rồi về bắt tôm cua sau. Chiều khi tôi ra thì đã muộn rồi, thôi thì lừa con ngu kia một phen vậy:
Chị Tấm ơi chị Tấm
Đầu chị bị lấm
Chị ra ruộng sâu mà gội đầu, không về mẹ mắng đó
Haha, nó đã tin lời mình, mình phải nhanh tay đổ hết tôm cua tép giỏ nó sang giỏ của mình mới được. Về nhà được lấy yếm đỏ, và tôi đã có cái yếm đỏ.
Một hôm nọ, tôi thấy con Cám ít ăn, hay để dành một bát cơm của mình. Tôi với mẹ mới rình xem con ranh đang làm gì. Tôi và mẹ đã thấy nó gọi là:
Bống bống bang bang
Bống ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
thì có con cá bống bé lòi lên. Tôi và mẹ tính thịt nó làm bữa bống kho. Hôm sau tôi và mẹ lừa nó đi chăn trâu xa không thì người ta thu trâu. Rồi tôi và mẹ tôi bắt con cá bống lên ăn thả ruột lại. Giờ nó hết người làm bạn nhé! Mình phải giấu xương ở xó bếp không nó biết với được.
Sắp đến vũ hội, mẹ và tôi chuẩn bị quần áo giầy dép mới cho tôi thật đẹp để kiếm chồng. Hôm đó tôi và mẹ chuẩn bị đi, con Tấm cũng đòi đi. Tôi tức quá, tôi xui mẹ đổ hết thóc gạo vào nhau cho nó ngồi mà sàng mà lọc. Haha, sáng mai cũng chưa xong đâu, rách rưới còn đòi theo quý tộc hahaha…
Đang chơi hội vui vua ban lệnh thử giày, ai đi vừa là vợ vua. Mẹ và tôi cùng thử nhưng giầy con nào mà bé thế, bố tao cũng không ních vào được. Lựa đằng này đằng kia đau cả chân, bực cả mình đành thôi.
Rồi có một con đến thử rất giống con Tấm nhưng đẹp hơn, nó chỉ gần bằng tao thôi sao lại vừa giầy nhỉ. Bực quá! Gọi nó thì đúng nó rồi. Vua đưa nó về tổ chức đám cưới luôn mới sợ. Con này là con ôsin mà, vua mù rồi.
Đến ngày giỗ bố nó cũng biết đường vác mặt mà về. Bây giờ oai như cóc rồi, bà sẽ cho mày một phen.