Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX

Vua Hải Tặc
Xem chi tiết
Nguyễn Huy Tú
23 tháng 10 2016 lúc 14:00

Câu 1:

Nguyên nhân: do nhu cầu phát triển sản xuất và những tiến bộ về kĩ thuật hàng hải như la bàn, hải đồ, kĩ thuật đóng tàu.

Những cuộc phát kiến địa lí lớn:

- Đi-a-xơ đến cực Nam châu Phi ( năm 1487 )

- V.Đơ-ga-ma đến Tây Nam Ấn Độ ( năm 1498 )

- Cô-lôm-bô tìm ra châu Mĩ ( năm 1492 )

- Ma-gien-lan đi vòng quanh Trái Đất ( năm 1519-1522 )

Ý nghĩa:

- Thúc đẩy thương nghiệp châu Âu phát triển và đem lại nguồn lợi khổng lồ cho giai cấp tư sản ở châu Âu.

Bình luận (0)
Phương Anh (NTMH)
23 tháng 10 2016 lúc 14:01

Câu 1.

=> Các nhà hàng hải, các cuộc phát kiến địa lí diễn ra vào cuối thế kỉ XV và đầu thế kỉ XVI

Nguyên nhân là: Do sản xuất phát triển, tiến bộ về kĩ thuật hàng hải: la bàn; hải đồ; kĩ thuật đóng tàu

Câu 2.

Cuối thế kỉ X, người Giec-Man đã xâm chiếm và tiêu diệt các quốc gia cổ đại phương tây thành lập nhiều vương quốc mới

- Xã hội hình thành các tầng lớp mới:

+ Lãnh chúa phong kiến

+ Nông nô

=> Xã hội phong kiến được hình thành

 

Bình luận (1)
Phương Anh (NTMH)
23 tháng 10 2016 lúc 14:51

xl bn nha. mk làm biếng quá vs lại nhìu bài tập lắm. mai mk kiểm tra 1 tiết tới 3 môn lận h ms hok bài nè ko rãnh.. xl nha

Bình luận (3)
Vua Hải Tặc
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
23 tháng 10 2016 lúc 12:24

* Lãnh địa phong kiến :

+ Kinh tế: tự túc, tự cấp

+ Hình thức sản xuất: nông nghiệp, thợ thủ công

+ Xã hội: lãnh chúa, nông nô

* Thành thị trung đại :

+ Kinh tế: trao đổi mua bán hàng hoá

+ Hình thức sản xuất: thủ công nghiệp, thương nghiệp

+ Xã hội: thợ thủ công, thương nhân

Bình luận (4)
Đăng chu quang
Xem chi tiết
Đăng Shinichi
21 tháng 10 2016 lúc 21:59

Thời gian 1000 năm qua, nhưng những dấu ấn lịch sử, văn hóa mà sử sách ghi chép để lại và các di tích còn tồn tại là những minh chứng có sức thuyết phục về những nét tương đồng giữa Hoa Lư - Thăng Long Hà Nội hội tụ khá đầy đủ các yếu tố trong không gian văn hóa quốc đô theo dòng lịch sử mà ông cha ta để lại.

Trước hết, về vị trí địa lý, Hoa Lư và Thăng Long Hà Nội đều nằm ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, ven các dòng sông lớn và đều gắn liền với huyền tích về linh vật “Rồng Vàng”.

Kinh đô Hoa Lư (nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) nằm ở gần kề sông Hoàng Long, nghĩa là Rồng Vàng. Dòng sông này gắn liền với sự tích “Rồng Vàng” nổi lên giữa dòng cứu Đinh Bộ Lĩnh (sau là vua Đinh Tiên Hoàng) bị chú ruột là Đinh Thúc Dự đuổi đánh vì tội giết trâu của chú khao lũ trẻ mục đồng, còn kinh đô Thăng Long nằm ở ven Nhị Hà (tức sông Hồng ngày nay) gắn liền với huyền tích có “Rồng Vàng hiện lên trên ngã ba Tô Giang Nhị Hà dưới chân thành Đại La rẽ sóng tới gần thuyền ngự vua Lý Thái Tổ rồi bay vút lên trời khuất lẫn trong những đám mây bông “Long vân khánh hội”, “Rồng mây gặp hội anh hào ra tay”. Dáng rồng bay vạch thế đất vươn lên nên mới đổi là Thăng Long.

Ngoài những dòng sông lớn là Hoàng Long và Nhị Hà ra thì ở Hoa Lư còn có dòng Sào Khê chạy ngoằn ngoèo uốn lượn bên trong về phía đông Kinh Thành; Còn Thăng Long có dòng Tô lịch ở về phía Tây Kinh Thành.

Dòng Hoàng Long, Nhị Hà cũng như dòng Sào Khê, Tô Lịch, là những tuyến đường giao thông thủy đã diễn ra các sự kiện lịch sử quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, mở mang phát triển quốc gia dân tộc dưới triều Đinh và triều Lý sau đó mà sử sách ghi chép cũng như dân gian lưu truyền.

Cuộc dời đô lịch sử của vua Lý Thái Tổ vào mùa thu năm Canh Tuất (1010) từ sông Hoàng Long ra tới sông Nhị Hà để về thành Đại La (Thăng Long). Còn ở Thăng Long, các vua nhà Lý thường chèo thuyền trên dòng sông Tô Lịch mang nhiều huyền tích, ngắm cảnh đất trời sông nước La Thành-Thăng Long nên thơ và ngoạn mục.

Ở khu cố đô Hoa Lư khai quật khảo cổ học đã tìm thấy khu mộ Hán cạnh chùa Bà Ngô (thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa lư, tỉnh Ninh Bình) bên dòng sông Hoàng Long. Do đó có thể nêu lên một nhận định dựa trên cơ sở xác thực là nơi đây hẳn là trụ sở của Trường Châu thời nhà Đường, vì theo sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh thì đất Ninh Bình thời Đường thuộc về Trường Châu; còn ở Thăng Long Hà Nội vốn là thành Đại La do Cao Biền xây đúng như sử sách ghi chép.

Ở Hoa Lư và Thăng Long - Hà Nội cơ sở hạ tầng xã hội khá thuận lợi để giao thông buôn bán phát triển kinh tế. Hệ thống giao thông mà chủ yếu là các tuyến đường thủy từ các trung tâm Hoa Lư Thăng Long tỏa đi các nơi trong nước lúc đương thời.

Từ Hoa Lư theo dòng Hoàng Long xuôi ra sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu xuống non nước Vân Sàng, sang sông Vạc để ra biển Đông và vào Châu Hoan Ái theo tuyến kênh do Lê Đại Hành đời Lê đào; ngược lên phía Bắc vào sông Châu ra sông Hồng… sử sách ghi chép cho biết Hoa Lư nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyền. Thương lái các nước lân bang lúc bấy giờ theo đường thủy cập bến Hồng Giang mang hàng hóa là vải lụa, gấm vóc trao đổi bán buôn tấp nập. Còn ở Kinh thành Thăng Long là nơi hội họp của bốn phương là trung tâm của đất nước, nơi đông người nhiều của thương thuyền các nước lúc bấy giờ đến trao đổi hàng hóa buôn bán đông vui, tấp nập mà dân gian còn lưu truyền “Thứ nhất Kinh Kỳ, Thứ nhì Phố Hiến”.

Về cấu trúc của Kinh thành thì cả Hoa Lư thời Đinh-Tiền Lê và Thăng Long thời Lý đều có những nét tương đồng, đều có hai vòng thành mà sử sách ghi chép cũng như hiện còn lưu giữ những dấu tích:

Thành Hoa Lư gồm có thành nội và thành ngoại. Giữa thành nội và thành ngoại không lồng vào nhau theo vị trí trong ngoài mà gần như là song song với nhau, ngăn cách nhau bằng dãy núi Phi Vân, nối thông với nhau bởi một quèn gọi là Quèn Vông vì trên quèn đó có rất nhiều cây lá vông mọc xanh tốt um tùm.

Cả thành nội và thành ngoại của thành Hoa Lư đều có hai vòng thành. Ở khu thành ngoại, vòng thành bên ngoài giống như thành Thăng Long là tường thành phía đông nối từ núi Dãng sang núi Thanh Lâu và núi Cột Cờ. Tường thành phía bắc nối từ núi Cột Cờ sang núi Chẽ và từ núi Chẽ sang núi Chợ. Ở phía đông có dãy núi Hang Quần; phía tây có dãy núi Phi Vân chắn giữ; phía vam có quèn Thụ Mộc như một tường thành.

Như vậy, thành ngoài bao gồm cả cánh đồng Hậu Đường chạy đến Hang Luồn (Xuyên Thủy Động) và quèn Thụ Mộc. Vòng thành ngoài vừa là chiến lũy khi có chiến sự xảy ra, lại vừa là đề phòng nước lũ lụt của sông Hoàng Long, giống như La Thành Thăng Long vậy.

Ở khu thành nội thành Hoa Lư, vòng thành bên ngoài từ núi Cánh Hàn sang núi Nghẽn về phía bắc; còn ở phía đông cũng chung với dãy núi Phi Vân của thành ngoài; phía tây có dãy núi Chùa Thủ chắn giữ; phía nam là núi đá bao bọc không cần phải dùng tường thành.

Vòng thành trong thành nội Thành Hoa Lư thời Đinh-Tiền lê giống như Cung Thành, Cấm Thành của Thành Thăng Long thời Lý. Năm Kỷ Tỵ (1029) thành Thăng Long xây dựng thêm Long Thành ở trong cùng.

Thành Thăng Long thời Lý được các nhà nghiên cứu xác định là thành của Cao Biền. Vòng thành ngoài đến nay vẫn còn dấu tích đó là địa danh La Thành. Các tường Thành này đều được đắp bằng đất và dựa vào địa thế tự nhiên mà đào đắp. Các cửa thành chỉ là những khuyết của tường thành mà không xây đắp cổng hay lầu cổng (Môn Lâu), như các tòa ô thành ở đời sau (giống như lối đi đặc biệt ở phía đông bắc thành Hoa Lư được phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ học năm 1970).

Như vậy, về cấu trúc thành Hoa Lư và thành Thăng Long có những nét giống nhau là đều có hai vòng thành, đều không xây dựng các cổng ra vào (Môn Lâu) như các tòa thành đời sau này; chỉ khác nhau ở chỗ: thành Hoa Lư dựa vào thế núi non hiểm trở mà xây dựng tường thành, còn ở thành Thăng Long tường thành chủ yếu xây đắp bằng đất.

Về kiến trúc cung điện thì ở thành Hoa Lư và thành Thăng Long đều có những điểm giống nhau là các cung điện đều quy tụ về tâm điểm và đối xứng nhau qua tâm điểm.

Năm Giáp Thân (984), Vua Lê Đại Hành cho xây dựng nhiều cung điện cột dát vàng dát bạc khá lộng lẫy như: Điện Bách Bảo Thiên Tuế ở giữa; các điện Phong Lưu, Cực Lạc, Tử Hoa; Bồng Lai đối xứng nhau ở hai bên đông tây tả hữu; còn ở Thành Thăng Long năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ cho xây dựng điện Càn Nguyên ở giữa; Các điện Tập Hiền, Giảng Vũ, Nhật Quang, Nguyệt Minh đối xứng nhau ở hai bên tả hữu.

Các mô típ hoa văn trang trí trên vật liệu xây dựng kiến trúc cung điện đồ dùng trong sinh hoạt cũng có những nét tương đồng thật đáng trân trọng.

Những viên gạch trang trí hoa văn hình hoa sen ở thành Hoa Lư là cơ sở để các nghệ nhân dân gian thời Lý phát triển với những họa tiết trang trí phong phú hơn, thành những viên gạch có hoa văn hay trang trí hình hoa sen, hoa cúc khá rực rỡ. Những con vịt bằng đất nung phát hiện ở thành Hoa Lư là hình mẫu để các nghệ sĩ tạo hình thời Lý tạo nên những con vịt đất nung nhìn tươi tắn, mịn màng, xinh đẹp. Một số bát, đĩa, bình gốm ở Hoa Lư cũng là những khuôn mẫu dáng hình để các nghệ nhân dân gian thời Lý chế tác ra các đồ dùng gốm bát, đĩa, bình, lọ, liễn, chậu… được pha lên lớp men ngọc trắng ngà thật là tinh tế và đẹp mắt.

Ngày nay ở Hoa Lư-Thăng Long Hà Nội còn lưu giữ những địa danh mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa truyền thống đất quốc đô như: Tháp Báo Thiên; Chùa Nhất Trụ-Chùa Một Cột; Chùa Bà Ngô; Chùa Am; Đình Ngang; Cầu Đông; Cầu Dền; Cột Cờ; Đông Môn; Tràng Tiền; Ngã ba Bồ Đề; Cống Chẹn…

Những địa danh lịch sử văn hóa truyền thống trên đã gợi lên bóng dáng của thành cổ Hoa Lư ở đất Kinh thành Thăng Long mang những nét tương đồng, là chứng tích của sự kiện lịch sử trọng đại trong cuộc dời đô của vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ra thành Đại La-Thăng Long - Hà Nội đã ngàn năm qua.

Hoa Lư-Thăng Long - Hà Nội có những nét tương đồng về vị trí địa lý; hành chính; kinh tế lịch sử văn hóa và địa danh… là những minh chứng mang các giá trị, ý nghĩa lịch sử văn hóa như là sự nối tiếp truyền thống dựng đặt đất Quốc Đô thời thống nhất, độc lập, tự chủ triều Đinh-Tiền Lê; xây dựng phát triển quốc gia dân tộc Đại Việt thời Lý và các đời tiếp theo với Thăng Long-Hà Nội to đẹp hơn, bề thế hơn; là nơi hội tụ của mọi miền đất nước. Đây là nơi chung đúc vượng khí của núi sông, anh linh của đất trời; dung hòa giữa tinh hoa văn hóa dân gian truyền thống với văn hóa cung đình lung linh tỏa sáng muôn sắc màu rực rỡ, trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng phát triển quốc gia Đại Việt.

Bình luận (1)
Bình Trần Thị
22 tháng 10 2016 lúc 11:43

bn vào link này nhé : http://dl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/6600/3/Nhung%20net%20tuong%20dong%20giua%20Hoa%20Lu%20Thang%20Long%20Ha%20Noi.pdf

dài quá mk ko viết hết được

Bình luận (0)
Nguyễn Vũ Đức Hoàng
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
19 tháng 10 2016 lúc 15:31

3. Sau khi Ngô Quyền mất :

+ Năm 944, Ngô Quyền mất, hai con trai còn nhỏ, chưa đủ uy tín, lại bị Dương Tam Kha tiếm quyền, các thế lực cát cứ, thổ hào địa phương khắp nơi lần lượt nổi dậy. Đất nước trở nên rối loạn.
+ Nhà Tống đang có mưu đồ xâm lược nước ta.
+ Năm 965, Ngô Xương Văn mất. Cuộc tranh chấp giữa các thế lực, thổ hào địa phương vẫn tiếp diễn, 12 tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương. Sử cũ gọi là "Loạn 12 sứ quân".

4.  - Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), đóng đỏ ờ Hoa Lư (Ninh Bình).
- Năm 970, vua Đinh đặt niên hiệu là Thái Bình, phong vương cho các con, cử các tướng thân cận nắm giữ các chức vụ chủ chốt ; xây dựng cung điện, đúc tiền... sai sứ sang giao hảo với nhà Tống.
- Công lao của Đinh Bộ Lĩnh :
+ Dẹp "Loạn 12 sứ quân" : liên kết với sứ quân Trần Lãm, chiêu dụ sứ quân Phạm Bạch Hổ, tiến đánh các sứ quân khác, dẹp tan "Loạn 12 sứ quân".
+ Xoá bỏ tình trạng phân tán, cát cứ ở các địa phương, đất nước trở nên yên bình, thống nhất.

Bình luận (0)
Nguyen Thi Mai
19 tháng 10 2016 lúc 15:28

Câu 1 :

Nhận xét: Tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng chặt chẽ, mọi quyền lực của Vua càng ngày lớn mạnh.

Câu 2 :

1. Việt Nam (Thủ đô Hà Nội),

2. Lào (Thủ đô Viêng Chăn),

3. Cam-pu-chia (Thủ đô Phnôm-pênh),

4. Thái Lan (Thủ đô Băng Cốc),

5. Mi-an-ma (Thủ đô Y-an-gun),

6. Ma-lai-xi-a (Thủ đô Cua-la Lăm-pơ).

7. In-đô-nê-xi-a (Thủ đô Gia-các-ta),

8. Xin-ga-po (Thủ đô Xin-ga-po),

9. Bru-nây (Thủ đô Ban-đa Xê-ri Bê-ga-oan),

10. Phi-líp-pin (Thủ đô Ma- ni-la),

11. Đông Ti-mo (Thủ đô Đi-li),

Bình luận (0)
cao thu vo lam
Xem chi tiết
Bình Trần Thị
8 tháng 10 2016 lúc 21:42

1. link nàynhé : https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_khu_T%C3%A2n_Tr%C3%A0o

 

Bình luận (3)
Yên Đỗ
10 tháng 10 2016 lúc 16:23

cho mình hỏi bạn thi em yêu lịch sử à ?hihi

Bình luận (1)
Lê Lan Hương
11 tháng 10 2016 lúc 8:08

làm xong chưa giúp mjk vs

 

Bình luận (1)
Nguyễn Duy Anh
Xem chi tiết
Lê Nguyên Hạo
15 tháng 10 2016 lúc 11:49

tui có đi, cx dc bầu mà k nhận lm vì k thích.

Bình luận (0)
Linh Đặng
Xem chi tiết
Lê Quỳnh Trang
13 tháng 10 2016 lúc 20:51

 

-   Tên cuộc kháng chiến, khởi nghĩa .

1Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê 981; Lê Hoàn Bạch Đằng  

2. Kháng chiến chống Tống thời Lý 1075 - 1077 Lý Thường Kiệt Phòng tuyến sông Cầu (Như Nguyệt)

3. Ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên thời Trần 1258; 1285; 1287 - 1288 Vua quan nhà Trần, đặc biệt: Trần Hưng Đạo Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng

4. Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 - 1427 Lê Lợi, Nguyễn Trãi Tốt Động – Chúc Động; Chi Lăng – Xương Giang 

Bình luận (2)
Lê Quỳnh Trang
13 tháng 10 2016 lúc 20:51

tick cho mik nha

Bình luận (0)
Linh Đặng
13 tháng 10 2016 lúc 21:08

Giúp mình với mình đang cần gấp lắm

Bình luận (0)
Nam Blue
Xem chi tiết
Lê Lan Hương
12 tháng 10 2016 lúc 8:57

tao còn sắp ết vs bài lịch sử này òi

gianroi

 

Bình luận (0)
qwerty
11 tháng 10 2016 lúc 10:32

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà Nội là nơi đặt trụ sở của Thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ, đại diện triều đình nhà Nguyễn, Bộ Chỉ huy quân Nhật ở Việt Nam và Chính phủ (thân Nhật) Trần Trọng Kim. Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các tầng lớp nhân dân, thanh niên, sinh viên, trí thức, v.v. Bởi vậy, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ xác định đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng; đồng thời, thường xuyên theo dõi chặt chẽ mọi hành động của các phe phái, nhất là quân Nhật để lãnh đạo, chỉ đạo Hà Nội khởi nghĩa giành chính quyền, tạo cơ sở, tiền đề cho các địa phương khởi nghĩa. Theo đó, Trung ương đã cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, giỏi nắm bắt thực tiễn, chỉ đạo cách mạng để tăng cường cho Hà Nội. Được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, Hà Nội đã chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ mọi việc; trong đó, chú trọng phát triển lực lượng chính trị, vũ trang và bán vũ trang để khi có điều kiện chớp thời cơ khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

Tối ngày 09-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Theo dõi, nắm chắc diễn biến tình hình, ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; xác định rõ kẻ thù lúc này của cách mạng Việt Nam và Đông Dương là phát-xít Nhật; thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát-xít Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát-xít Nhật”, v.v.

Thực hiện Chỉ thị này, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội phát động phong trào đấu tranh kháng Nhật, cứu nước; tích cực đấu tranh chính trị, tư tưởng, vạch trần bộ mặt giả dối của phát-xít Nhật, việt gian, bù nhìn; đồng thời, chống tâm lý phục Nhật, sợ Nhật. Đảng ta, trong đó có Đảng bộ Hà Nội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương thành lập nhiều ban, tổ tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân; chỉ đạo ra mắt các tờ báo, như: Cứu quốcCờ Giải phóng, tổ chức lưu hành rộng rãi trong công nhân. Các tổ, đội tuyên truyền cổ động, với nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ đi khắp các phố, phường, ngõ, ngách, thôn, xóm, vừa tuyên truyền, vận động nhân dân vững tin vào đường lối của Đảng, vừa gây thanh thế cho Việt Minh, vừa uy hiếp kẻ thù. Qua đó, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân nêu cao tinh thần đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.

Để phát triển lực lượng rộng khắp, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ cùng Đảng bộ Hà Nội khẩn trương thành lập các tổ chức cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, thậm chí cả trong các cơ quan hành chính của Pháp, Nhật và chính phủ bù nhìn. Nhiều cán bộ của ta đã đi vào các nhà máy, xí nghiệp, nhất là các nhà máy, xí nghiệp lớn, quan trọng; về các xã, phường, khu phố, thôn, xóm vận động các tầng lớp nhân dân đi theo cách mạng và tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng. Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng của Mặt trận Việt Minh không ngừng lớn mạnh. Đội Công nhân xung phong thành Hoàng Diệu khoảng 30 đội viên; Đội Tự vệ xung phong ngoại thành khoảng 21 đội viên; Đội Tự vệ cứu quốc phố Bạch Mai khoảng 155 đội viên, v.v. Trước yêu cầu phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, Hà Nội gấp rút mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ quân sự, chính trị cả ở nội thành và ngoại thành cho các tổ, đội tự vệ và các ban, ngành. Vì thế, gần đến ngày khởi nghĩa, lực lượng vũ trang Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Chỉ tính riêng lực lượng đã được huấn luyện có trên 700 người, Đảng bộ Hà Nội tuy chỉ có khoảng 50 đảng viên, nhưng được tổ chức chặt chẽ; đều là cán bộ được lựa chọn từ các địa phương thuộc Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ương, nên đây là một Đảng bộ rất mạnh. Ngoài ra, còn có hàng chục vạn quần chúng cảm tình, sẵn sàng ủng hộ và đi theo cách mạng.

Cùng với đó, Đảng bộ Hà Nội còn chỉ đạo mở rộng việc bán “Tín phiếu Việt Minh”, phát động phong trào quyên góp, gây quỹ “Đồng tiền cứu nước” để sản xuất, mua sắm vũ khí; tích cực lấy súng, đạn của địch trang bị cho lực lượng vũ trang. Tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi nhanh chóng, có lợi cho cách mạng, làm cho quân Nhật và chính phủ bù nhìn không những bối rối, bất lực mà còn bị cô lập. Hà Nội còn tổ chức cho nhân dân phá kho thóc của Nhật, vừa cung cấp lương thực cho đồng bào, vừa trực tiếp tập dượt công tác tổ chức, chỉ huy để Đảng bộ Hà Nội rút kinh nghiệm làm cơ sở chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền.

Bình luận (1)
I❤u
Xem chi tiết
Kudo Shinichi
6 tháng 10 2016 lúc 11:50

- Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế láy niên hiệu là Đinh Tiên Hoàng.

- Đặt tên nước là Đại Cồ Việt.

- Đóng đô ở Hoa Lư.

- Phong vương cho các con.

- Cắt cử quan lại.

- Xây dựng cung điện, đúc tiền.

- Nghiêm khắc sử phạt kẻ phạn tội

Bình luận (0)
Nguyễn Huy Tú
6 tháng 10 2016 lúc 12:10

- Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế ( Đinh Tiên Hoàng )

- Đặt tên nước là Đại Cồ Việt ( nước Việt lớn ) đóng đô ở Hoa Lư ( Ninh Bình )

- Năm 970, vua Đinh đặt niên hiệu là Thái Bình, phong vương cho các con, cử các tướng thân cận, nắm giữ các chức vụ chủ chốt.

+ Xây dựng cung điện, đúc tiền và sai sứ sang giao hảo với nhà Tống.

Bình luận (0)
Trần Việt Linh
6 tháng 10 2016 lúc 11:42

Năm 968, công cuộc thống nhất đất nước đã hoàn thành, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), đóng đô tại Hoa Lư.
Mùa xuân năm 970, vua Đinh đặt niên hiệu là Thái Bình, sai sứ sang giao hảo với nhà Tống.
Đinh Bộ Lĩnh phong vương cho các con, cứ các tướng lĩnh thân cận như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Lê Hoàn... nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Ông cho xây dựng cung điện, đúc tiền để tiêu dùng trong nước ; đối với những kẻ phạm tội, thì dùng những hình phạt khắc nghiệt như ném vào vạc dầu sôi, hay vứt vào chuồng hổ...

Bình luận (7)
Cung Sư Tử
Xem chi tiết
Đặng Phương Dung
1 tháng 10 2016 lúc 19:42

bài mấy vậy bn . nói mk giúp cho

 

Bình luận (3)
Bình Trần Thị
1 tháng 10 2016 lúc 22:22

ý 1 : ở Firenze , Ý .

 

Bình luận (0)