vì sao đến giữ thế kỉ XIX việt nam trở thành đối tượng xâm lược của nước tư bản PHÁP
vì sao đến giữ thế kỉ XIX việt nam trở thành đối tượng xâm lược của nước tư bản PHÁP
M. N giúp e với ạ. Yêu cầu lịch sử đối với nước ta ở giữa thế kỉ 19 là gì?
tham khảo nhé bạn:
Yêu cầu lịch sử đặt ra:
Hoặc là tiến hành cải tổ đổi mới đất nước đi lên để có thể chống lại các thế lực ngoại xâm hoặc tiếp tục duy trì chính sách bảo thủ lạc hậu đẩy đất nước vào tình thế trở thành miếng mồi ngon cho thực dân phương tây.
khái quát xâm lược việt nam của pháp 1858-1884
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn.
-Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng Sài Gòn và ba tỉnh lân cận miền Đông Nam bộ cho Pháp.
-Năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp ở miền Tây để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ).
-Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc.
vì sao pháp phải mất gần 30 năm mới xâm lược được việt nam ?
+ Sở dĩ Pháp phải kéo dài chiến tranh xâm lược Việt Nam là do đi đến đâu chúng cũng luôn vấp phải sức kháng cự quyết liệt , ngoan cường của nhân dân ta.
+ Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cuối cùng đã thất bại, triều Nguyễn đầu hàng, thực dân Pháp hoàn thành xâm lược Việt Nam năm 1884.
liệt kê các phong trào chống pháp của nhân dân ta từ 1858-1884?(thời gian,tên k/n,địa bàn)
mong mn giúp đỡ cho mình
Tài liệu khá đắt giá này
I. LIÊN QUÂN PHÁP - TÂY BAN NHA XÂM LƯỢC VIỆT NAM. CHIẾN SỰ Ở ĐÀ NẴNG NĂM 1858.
1. Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp
Giữa thế kỉ XIX, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, song chế độ phong kiến đã lâm vào khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.
- Kinh tế:
+ Nông nghiệp sa sút, mất mùa, đói kém thường xuyên.
+ Công thương nghiệp đình đốn. Nhà nước thực hiện chính sách “Bế quan tỏa cảng”.
- Quân sự: lạc hậu.
- Đối ngoại sai lầm: cấm đạo, xua đuổi giáo sĩ, làm rạn nút khối đoàn kết dân tộc.
- Xã hội: nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra: Cao Bá Quát, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân …
2. Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam
- Tư bản phương Tây và Pháp nhòm ngó Việt Nam từ rất sớm, bằng con đường buôn bán và truyền đạo.
- Tư bản Pháp đã lợi dụng đạo Thiên Chúa như một công cụ xâm lược. Giám mục Bá Đa Lộc đã chớp cơ hội cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam khi Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực nước ngoài giúp giành lại quyền lực bằng Hiệp ước Véc-xai 1789.
- Giữa thế kỉ XIX, Pháp tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, tìm cách tiến đánh Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á .
- Năm 1857, Na-pô-lê-ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta, đồng thời tích cực xâm chiếm Việt Nam. Việt Nam đứng trước nguy cơ bị xâm lược.
Trong cuộc chạy đua xâm lược Việt Nam, Pháp tỏ ra tích cực hơn cả, chớp mọi cơ hội để can thiệp vào Việt Nam. Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh đã cầu cứu nước ngoài nhằm khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc đã chớp cơ hội đó tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp ước Vécxai năm 1787.Với Hiệp ước này, tư bản Pháp hứa sẽ giúp Nguyễn Ánh đánh lại nhà Tây Sơn, đổi lại Pháp được sở hữu cảng Hội An, đảo Côn Lôn và độc quyền mua bán tại Việt Nam.
Bá Đa Lộc là giáo sĩ người Pháp, năm 1776 được phái sang Cam-pu-chia, ở đây ông gặp Nguyễn Ánh. Bá Đa Lộc đã ra sức thuyết phục Nguyễn Ánh cầu viện nước Pháp. Năm 1784 Nguyễn Ánh giao Vương Ấn và hoàng tử Cảnh (mới 5 tuổi) nhờ Bá Đa Lộc đưa sang Pháp. Được sự đồng ý của vua Pháp, Bá Đa Lộc đã thay mặt Nguyễn Ánh ký với Pháp điều ước Véc- xai năm 1787. Năm 1799, trong một lần theo quân Nguyễn Ánh đánh ra Quy Nhơn, Bá Đa Lộc ốm chết. Nguyễn Ánh mang ơn người Pháp, vì vậy đã cho 40 cố vấn người Pháp tham gia chính quyền, nên người Pháp càng có điều kiện để điều tra tình hình và can thiệp vào Việt Nam
3. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858
- Ngày 31/08/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng, âm mưu chiếm Đà Nẵng làm căn cứ tấn công ra Huế, buộc nhà Nguyễn đầu hàng.
- Sáng 01/09/1858, Pháp gửi tối hậu thư song không đợi trả lời đã nổ súng tấn công và đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
- Quân dân ta anh dũng chống xâm lược, thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” gây cho địch nhiều khó khăn. Pháp bị cầm chân 5 tháng trên bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp thất bại.
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng) chuẩn bị tấn công - Ảnh tư liệu
* Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên:
- Đà Nẵng là cảng nước sâu vì vậy tàu chiến có thể hoạt động dễ dàng.
- Có thể dùng Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công Huế,buộc triều Nguyễn phải đầu hàng, kết thúc nhanh chóng cuộc xâm lược Việt Nam.
- Là nơi thực dân Pháp xây dựng được cơ sở giáo dân theo Kitô, chúng hy vọng được giáo dân ủng hộ
Thành Điện Hải sau những đợt oanh tạc bằng đại bác vào sáng 1-9-1858
Pháp tấn công và đổ bộ bán đảo Sơn Trà
II. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở GIA ĐỊNH VÀ CÁC TÌNH MIỀN ĐÔNG NAM KÌ TỪ 1859 - 1862
1. Kháng chiến ở Gia Định
- Tháng 02/1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định nhưng gặp nhiều khó khăn do hoạt động của các dân binh. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp thất bại, chúng phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”.
- Từ năm 1960, Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến ở Trung Quốc, Xi-ri, phải rút quân từ Đà Nẵng về Gia Định. Lực lượng địch rất mỏng, tình thế cực kì khó khăn. Triều Nguyễn không tranh thủ phản công mà cử Nguyễn Tri Phương vào xây dựng phòng tuyến Chí Hoà để “thủ hiểm”.
- Các nghĩa dũng do Dương Bình Tâm lãnh đạo tiếp tục tấn công giặc ở đồn Chợ Rẫy (07/1960), trong khi triều đình Huế xuất hiện tư tưởng chủ hòa.
* Pháp lại đánh Gia Định, chứ không đánh ra Bắc Kì
- Gia Định xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
- Xa kinh đô Huế sẽ tránh được sự tiếp viện của triều đình Huế.
- Chiếm được Gia Định coi như là chiếm được kho lúa gạo của triều đình Huế, gây khó khăn cho triều đình.
- Đánh xong Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Campuchia (Cao Miên) làm chủ lưu vực sông Mê Kông.
- “Sài Gòn có triển vọng trở thành trung tâm của một nền thương mại lớn - xứ này giàu sản vật, mọi thứ đều đầy rẫy”. Hơn nữa lúc này người Pháp phải hành động gấp vì tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn để nối liền cửa biển quan trọng trên.
Tàu chiến Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ vào Sài Gòn năm 1859
Phó đô đốc Charles_Rigault_de_Genouilly, chỉ huy quân đội Pháp tấn công Gia Định năm 1859
Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định
2. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước Nhâm Tuất (05/06/1862)
- Tháng 02/1861, Pháp tấn công Đại Đồn Chí Hoà, quân ta kháng cự quyết liệt nhưng do hỏa lực địch quá mạnh, Nguyễn Tri Phương buộc phải rút lui. Pháp thừa thắng đánh chiếm Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long.
- Phong trào kháng chiến của nhân dân dâng cao, Pháp đang vô cùng bối rối thì triều Nguyễn đã kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất (05/06/1862) gồm 12 điều khoản.
Quân Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa
* Hiệp ước Nhâm Tuất 5-6-1862
- Về lãnh thổ: Huế thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở Gia Định – Định Tường – Biên Hòa .Pháp trả lại Vĩnh Long khi nào triều đình buộc nhân dân ngừng kháng chiến
- Về thông thương: mở 3 cửa biển Đà Nẵng ,Ba Lạt ,Quảng Yên cho Pháp vào tự do buôn bán .
- Về chiến phí: bồi thường cho Pháp 288 vạn lạng bạc .
- Về truyền giáo: cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô và bãi bỏ lệnh cấm đạo
* Nguyên nhân Huế ký với Pháp hiệp định Nhâm Tuất: nhân nhượng với Pháp để bảo vệ quyền lợi của giai cấp và giòng họ , rảnh tay ở phía nam để đối phó với phong trào nông dân khởi nghĩa ở phía Bắc.
Đánh giá:
+ Đây là một Hiệp ước mà theo đó Việt Nam phải chịu nhiều thiệt thọi, vi phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
+ Hiệp ước chứng tỏ thái độ nhu nhược của triều đình, bước đầu nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp.
Đó là trận đánh chìm tàu chiến Et-phê-răng ( Hi vọng ) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo) của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Trung Trực: tên thật là Nguyễn Văn Lịch, người phủ Tân An, Định Tường ( nay thuộc Long An ). Khi Pháp xâm lược Nam Kì, ông đã cùng nhân dân đứng lên chống Pháp. Trận đánh nổi tiếng của ông là vụ đốt cháy chiến hạm Hi Vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông trưa ngày 10/12/1862. Ông đã cùng một toán nghĩa quân dụ giặc lên bờ rồi cầm đầu 5 chiếc thuyền áp tới khiến bọn giặc trên tàu không kịp trở tay, bị tiêu diệt hầu hết. Sau trận đánh đó ông được triều đình phong chức Quân cơ coi giữ vùng Hà Tiên. Trận đánh trên sông Nhật Tảo khích lệ mạnh mẽ tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh. Thực dân Pháp đã thú nhận:“Đây là một trận đau đớn làm cho tinh thần người Việt phấn khởi và gây cảm xúc sâu sắc trong một số người Pháp”.
Năm 1867 triều đình phong cho ông chức Lãnh Binh, rồi điều ông ra miền Trung nhưng ông đã chống lệnh, lập căn cứ ở Hòn Chông. Rạng sáng ngày 16/6/1868 ông đưa quân đánh úp đồn Kiên Giang ( nay là thị xã Rạch Giá ) tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đó. Tháng 9/1868 ông bị giặc bắt, dụ dỗ nhưng ông kiên quyết không đầu hàng, ông đã nói một câu nổi tiếng: ”Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.Ngày 27/10/1868 giặc Pháp đã hành hình ông ở Rạch Giá.
Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (10-12-1861).
Thực dân Pháp đánh chiếm và các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở 6 tỉnh Nam Kỳ 1859-1874
III. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN NAM KÌ SAU HIỆP ƯỚC 1862
1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông Nam Kì tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862
- Triều đình ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh.
- Nhân dân tiếp tục kháng chiến vừa chống Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng.
* Khời nghĩa Trương Định gây nhiều khó khăn cho Pháp. Nghĩa quân xây dựng căn cứ ở Gò Công, liên kết lực lượng đánh địch ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng ở Gia Định, Định Tường.
- Tháng 02/1863, Pháp tấn công Gò Công, nghĩa quân anh dũng chiến đấu,
- Tháng 08/1864, Trương Định hy sinh. Khởi nghĩa kết thúc.
- Tháng 9/1861: Khởi nghĩa của Trương Định chống Pháp ở Gia Định.
Trương Định nhận phong soái
Thành Gò Đen (Trương Định)
Căn cứ của nghĩa quân Trương Định bị Pháp đánh chiếm (1863)
Cảnh thực dân Pháp tấn công thành Định Tường 1861
Căn cứ Đồng Sơn của nghĩa quân Trương Định (sau khi bị thực dân Pháp đánh chiếm năm 1863)
2. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ
- Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế .
- Ngày 20/06/ 1867, Pháp ép Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long không điều kiện.
- Từ 20 đến 24/ 06/1867), Pháp chiếm Vĩnh Long , An Giang và Hà Tiên không tốn một viên đạn.
3. Nhân dân ba tỉnh miền Tây chống Pháp
Phong trào kháng chiến tăng cao:
- Một số sĩ phu ra Bình Thuận xây dựng Đồng Châu xã do Nguyễn Thông cầm đầu mưu cuộc kháng chiến lâu dài.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra: Trương Quyền ở Tây Ninh; Phan Tôn, Phan Liêm ở Ba Tri; Nguyễn Trung Trực ở Hòn Chông (Rạch Giá) Nguyễn Hữu Huân ở Tân An, Mĩ Tho …; Âu Dương Lân ở Vĩnh Long , Long Xuyên, Cần Thơ…
- Do lực lượng chênh lệch, cuối cùng phong trào thất bại nhưng đã thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và ý chí bất khuất của nhân dân ta.
Mặt trận
Cuộc tấn công
của quân Pháp
Cuộc kháng chiến của triều Nguyễn
Cuộc kháng chiến của nhân dân
Kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì sau Hiệp ước 1862.
Pháp dừng các cuộc thôn tính để bình định miền Tây
Triều đình ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp
-Nhân dân vừa chống Pháp vùa chống phong kiến đầu hàng.
-Khời nghĩa Trương Định gây nhiều khó khăn cho Pháp. Nghĩa quân xây dựng căn cứ ở Gò Công, liên kết lực lượng đánh địch ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng ở Gia Định, Định Tường.
-Tháng 02/1863, Pháp tấn công Gò Công, nghĩa quân anh dũng chiến đấu,
-Tháng 08/1864, Trương Định hy sinh. Khởi nghĩa kết thúc.
Kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây Nam Kì
-Ngày 20/06/ 1867, Pháp ép Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long không điều kiện.
- Từ 20 đến 24/ 06/1867), Pháp chiếm Vĩnh Long , An Giang và Hà Tiên không tốn một viên đạn
- Triều đình bạc nhược, lúng túng.
- Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long và viết thư khuyên quan quân hai tỉnh An Giang, Hà Tiên nộp thành để “tránh đổ máu vô ích”.
- Phong trào kháng chiến tăng cao:
+ Một số sĩ phu ra Bình Thuận xây dựng Đồng Châu xã do Nguyễn Thông cầm đầu mưu cuộc kháng chiến lâu dài
+ Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra: Trương Quyền ở Tây Ninh; Phan Tôn, Phan Liêm ở Ba Tri; Nguyễn Trung Trực ở Hòn Chông (Rạch Giá) Nguyễn Hữu Huân ở Tân An, Mĩ Tho …
- Do lực lượng chênh lệch, cuối cùng phong trào thất bại nhưng đã thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và ý chí bất khuất của nhân dân ta.
* Nhận xét
Từ sau 1862, cuộc kháng chiến của nhân dân mang tính độc lập với triều đình, vừa chống Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng “dập dìu trống đánh cờ xiêu, phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”, cuộc kháng chiến của nhân dân gặp nhiều khó khăn do thái độ bỏ rơi, xalánh của triều đình với lực lượng kháng chiến
* So sánh tinh thần chống Pháp của vua quan triều Nguyễn và của nhân dân từ 1858 – 1873:
- Triều đình tổ chức kháng chiến chống Pháp ngay từ đầu song đường lối kháng chiến nặng nề về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, ảo tưởng đối với thực dân Pháp, bạc nhược trước những đòi hỏi của thực dân Pháp.
- Nhân dân chủ động đứng lên kháng chiến với tinh thần cương quyết dũng cảm. Khi triều đình đầu hàng, nhân dân tiếp tục kháng chiến mạnh hơn trước, bằng nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo.
Năm 1862, Pháp cử hạm trưởng tàu chiến Forbin là Simon đến cửa biển Thuận An để đưa thư thông báo triều đình Huế cử phái đoàn qua Pháp điều đình chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ.
Mình ko kẻ bảng đc nhưng bn tự làm nha mink ghi rõ í lắm ạ
1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ 1858 đến 1873
a. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858.
Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31 - 8 – 1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiếc thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng.
Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.
Sáng 1 – 9 – 1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó lại tích cực thực hiện “ vườn không nhà trống ” gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân Pháp-Tây Ban Nhabij cầm chân suốt 5 tháng ( từ cuối tháng 8 – 1958 đến đầu tháng 2 – 1859) trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược.
Khí thế kháng chiến sục sôi trong nhân dan cả nước
Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu “ đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.
b.Kháng chiến ở Gia Định
Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định.
Gia Định và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thủy ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của tiều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho viêc làm chủ lưu vực sông Mê Công của Pháp.
Ngày 9 – 2- 1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liệt cuẩ quân dân a nên mãi tới ngày 16 – 2 – 1859 quân Pháp mới đến được Gia Định. Ngày 17 – 2, chúng nổ súng đánh thành. Quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại, các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đêm bán sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống các tàu chiến. Kế hoạch “ đanh nhanh thắng nhanh ” bị thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch “ chinh phục từng gói nhỏ”.
Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam kì có sự thay đổi. Nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I–ta–li– a, phải cho rút toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định ( 23 – 3 – 1860 ). Vì phải chia sẻ lực lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1000 tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hòa mới được xây dựng, trong tư thế “ thủ hiểm”.
Từ tháng 3 – 1860, Nguyễn Tri Phương được lệnh từ Đà Nẵng vào Gia Định. Ông đã huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng Đại đòn Chí Hòa, vừa đồ sộ vừa vững chắc, nhưng vì không chủ động tấn công nên gần 1.000 quân Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta với một lực lượng từ 10.000 đến 12.000 người.
Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa dúng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng nhất trên phòng tuyến của địch(7-1860).
Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi (Đà Nẵng và Gia Định), rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lúc này trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng chủ hòa lan ra làm lòng người li tán.
c. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5 - 6 – 1862.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến ở Trung Quốc với Điều ước Bắc Kinh (25-10-1860), quân Pháp liền kéo về Gia Định, tiếp tục mở rộng việc đánh chiếm nước ta.
Ngày 23-2-1861, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Đại đồn Chí Hòa. Quân ta kháng cự quyết liệt, cuối cùng trước hỏa lực mạnh của địch, Đại đòn Chí Hòa đã rơi vào tay giặc. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường(12-4-1861), Biên Hòa(18-12-1861), Vĩnh Long(23-3-1862).
Khi giặc Pháp từ Gia Định đánh lan ra, cuộc kháng chiến của nhân dân ta càng phát triển mạnh hơn. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy.....chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công. Ngày 10-12-1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông ( đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân dân ta.
Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày cangd dâng cao, khiến quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862).
Hiệp ước có 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như: triều đình nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì ( Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn ; bồi thường 20 triệu quan ( ước tính bằng 280 vạn lạng bạc ) ; triều đình phải mở ba cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha vào tự do buôn bán ; thành Vĩnh Long sẽ được trả lại cho triều đình Huế khi nào triều đình chấm dứt được các hoạt động chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông.
Thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong Hiệp ước 1862, triều đình Huế ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.
Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ba tình miền Đông vẫn tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất, bám dân, cổ vũ nghĩa binh đánh Pháp và chống phong kiến đầu hàng. Phong trào “ tị địa” diễn ra sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng mới chiếm được. Các đội nghĩa quân vẫn không chịu hạ vũ khí mà hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Trương Định tiếp tục giành được chiến thắng, gâu cho Pháp nhiều khó khăn.
Trương Định là con trai của Lãnh binh Trương Cầm, quê ở Quảng Ngãi. Ông theo cha vào Nam từ hồi nhỏ. Năm 1850 , Công cùng Nguyễn Tri Phương mộ phu đồn điền, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản cơ. Năm 1859, khi Pháp đánh Gia Định, Trương Định đã đưa đội quân đồn điền của ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Tháng 3 – 1860, khi Nguyễn Tri Phương được điều vào Gia Định, ông lại chủ động đem quân phối hợp đánh địch. Tháng 2 – 1861, chiến tuyến Chí Hòa bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hòa (Gò Công), quyết tâm chiến đấu lâu dài.
Sau Hiệp ước 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức Lãnh Binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất lá cờ “Bình Tây Đại nguyên soái ”, hoạt động của nghĩa quân đã củng cố niềm tin của dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ.
Nghĩa quân tranh thủ thời gian ra sức xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí, liên kết lực lượng, đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi.
Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hòa, ngày 28 - 2 – 1863 giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở Tân Phước. Ngày 20 – 8 -1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào căn cứ Tân Phước. Nghĩa quân chống trả quyết liệt. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi.
d. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nhân dân ba tỉnh miền Tây chống Pháp
Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tổ chức bộ máy cai trị và chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Năm 1863, thực dân Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ lên đất Cam–pu-chia. Sau đó, chúng vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước 1862, yêu cầu triều đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Trước yêu cầu này, triều đình vô cùng lúng túng.
Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20 – 6 – 1867, quân Pháp kéo đến trước thành Vĩnh Long, ép Phan Thanh Giản ( lúc đó đang giữ chức Kinh lược sứ của triều đình) phải nộp thành không điều kiện. Chúng còn khuyên ông viết thư cho quan quân hai tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí nộp thành.
Trong vòng 5 ngày ( từ 20 đến 24 – 6 – 1867), thực dân Pháp đã chiếm gọn ba tỉnh miền Tây Nam Kì ( Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên ) mà không tốn một viên đạn
Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biên ra vùng Bình Thuận ( Nam Trung Kì ) nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân, tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp.
Trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với thời kì thực dân Pháp mới xâm chiếm Nam Kì, phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ngày một chênh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối cùng phong phào đều bị đàn áp và thất bại.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói chung, của nhân dân ba tỉnh miền Tây nói riêng, là những biểu hiện cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta.
2. Kháng chiến chống Pháp của nhân dân ( 1873 – 1884)
a. Thực đân Pháp đánh chiếm bắc kì lần thứ nhất(1873). Kháng chiến của nhân dân Bắc Kì
Sau khi chiếm được các tỉnh Nam kì, Thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước. Chúng phái gián điệp ra Bắc, điều tra tình hình bố phòng của ta, bắt liên lạc với Giăng Đuy –Puy một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc- Việt Nam, ngoài ra Pháp còn lôi kéo một số tín đồ Công giáo lầm lạc, kích động họ nổi lên chống triều đình, hình thành đạo quân nội ứng cho cuộc xâm lược sắp đến.
Tháng 11-1872, ỷ thế nhà Thanh,Đuy Puy tự tiện cho tàu lên Vân Nam buôn bán, dù chưa được phép của triều đình Huế. Hắn còn ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, có ngượng địa ở Hà Nội, được cấp than đá đẻ đưa sang Vân Nam, ính Pháp và thổ phỉ dưới trướng Đuy Puy cón cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan lính và dân ta đem xuống tàu; khước từ lời mời tới thương thuyết của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương…
Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ giải quyết “vụ Đuy- Puy” đang gây rối ở Hà Nội, Thực đan Pháp ở Sài Gòn phái đại úy Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc.
Ngày 5-11-1873, đội tàu chiến của Gác-ni-ê đến Hà Nội. Sau khi hội quân với Đuy-Puy, quân Pháp liền giở trò khiêu khích.
Ngày 16-11-1873, sau khi có thêm viện binh, Gác-ni-ê liền tuyên bố mở cửa sông Hồng, áp dụng biểu thuế quan mới. Sáng 19-11, hắn gử tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu giải tán quân đội, nộp khí giới…không đợi trả lời, mờ sáng ngày 20-11-1873, quân Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội. Những ngày sau đó, chúng đưa quân đi chiếm các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc kì: Hưng Yên(23-11),Phủ lý(26-11), Hải Dương(3-12), Ninh Bình( 5-12) và Nam Định(12-12).
Hành động xâm lược của Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẩn.
Ngay khi Gác-ni-ê Đến hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.
Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh đến người cuối cùng tại cửa Ô Thanh Hà ( sau dược đổi thành Ô Quan Chưởng) . Tronh thành Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thú quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt, ông đã khước từ sự chữa chạy của Pháp nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu.
Thành Hà Nội bị giặc chiếm, quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu, văn thân yêu nước đã lập Nghĩa hội bí mật tổ chức chống Pháp. Tại các tỉnh Hung Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định…quân Pháp củng vấp Phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta.
Trận đánh gây tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân ta tại Cầu Giấy ngày 21-12-1873.
Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống Nam Định, việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy( có sự phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn Tây kéo về Hà Nội, hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê phải tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21-12-1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của ta tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị têu diệt.
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô caungf phấn khởi; ngược lại làm cho thực đân Pháp hoang mang, lo sợ và tìm cách thương lượng. Triều đình Huế lại kí Hiệp ước năm 1874( Hiệp ước Hác Măng), theo đó quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở để thực hiện các bước xâm lược về sau.
Hiệp ước năm 1874 gồm 22 điều khoản . Với Hiệp ước này nhà Nguyyeenx chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam kì là đất thuộc Pháp, công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam của chúng…
Hiệp ước 1874gaay bất bình lớn trong sĩ phu và nhân dân yêu nước. Phong trào đấu tanh phản đối Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy ở Nghệ An và Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển lảnh đạo .
b. Thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì Và Trung kì trong những năm 1882-1884.
Quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc kì lần thứ hai(1882-1883)
Từ những năm 70 của thế kỉ XIX , nước Pháp chuênr sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Yêu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân công và lợi nhuận được đặt ra ngày càng cấp thiết. thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam.
Để don đường quân Pháp lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước 1874 để phái người di điều tra tình hình mọi mặt ở Bắc kì. Năm 1882, chúng lại vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra Bắc.
Ngày 3-4-1882, quân Pháp do Đại tá hải quân Ri-vi-e chỉ huy bất ngờ đổ quân lên Hà Nội. Ngày 25-4 sau khi dược tăng thêm viện binh, chúng gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, yêu cầu quân đội triều đình hạ vũ khí, giao thành trong vòng 3 giờ đồng hồ. Chưa hết thời hạn địch đã nổ súng chiếm thành.
Quân Pháp cướp nhiề vàng bạc, châu báu, phá hủy các cổng thành, các khẩu đại bác, vứt súng đạn xuống hào nước, lấy hành cung làm đại bản doanh, cho củng cố khu nhượng địa ở bờ sông Hồng, chiếm Sở Thương chính, dựng lên chính quyền tay sai để tạm thời cai quản Hà Nội.
Nhân lúc triều đình Huế còn đang hoang mang, lơ là, mất cảnh giác, Ri-vi-e đã cho quân chiếm vùng mỏ than Hòn Gai, Quảng Yên Và tỉnh thành Nam Định(3-1883)
c. Nhân dân Hà Nội và các tỉnh Bắc kì kháng chiến.
Ngay từ đầu quân Pháp đã vấp phải tinh thần chiến đấu của quân đân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa cản giặc. Trưa ngày 25-4, khi quân pháp mở cuộc tấn công vào thành, Hoàng Diệu đã lên mặt thành chỉ huy quân sĩ kiên quyết chống cự, nhưng vẫn không giữ được thành. Để bảo toàn khí tiết, sau khi thảo tờ di biểu gửi triều đình, Hoàng Diệu đã tự vẫn trong vườn Võ Miếu( dưới chân cột cờ Hà Nội ngày nay) để khỏi rơi vào tay giặc.
Thành Hà Nội rơi vào tay giặc, nhưng nhiều sĩ phu, văn thân vẫn tiếp tục tổ chức kháng chiến.
Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản đem quân chốt giữ Sơn Tây, Bắc Ninh hình thành hai gọng kìm áp sát Hà Nội . Nhân đân không bán lương thực cho Pháp. Nhiều đội nghĩa dũng được thành lập ở các tỉnh, tự động rào làng, đắp cản. Khi Pháp đánh Nam Định, nhân dân đốt hết các dãy phố dọc sông Vị Hoàng phía ngoài thành, tạo nên bức tường lửa ngăn quân giặc. Nguyễn Hữu Bản, con của Nguyễn Mậu Kiến, nối tiếp chí cha, mộ quân đánh Pháp và đã hi sinh trong chiến đấu.
Vòng vây của quân dân ta xung quanh hà nội ngày càng xiết chặt đã buộc Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19-5-1883, một toán quân Pháp do Ri-vi-e đích thân chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo dường đi Tây sơnnhwng đến Cầu Giấy bị đội quân thiện chiến của Hoàng Tá Viêm và Lưu vĩnh Phíc đổ ra đánh. Hàng chục tên giặc bị tiêu giệt, trong đó có cả Ri-vi-e.
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân ta. Tuy nhiên triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng thu hồi Hà Nội bằng con đường thương thuyết.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX,chúng ta đã có những cơ hội để đánh bật Pháp ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.Hãy dẫn chứng những cơ hội đó trong gia đoạn 1859-1861 và giai đoạn 1873-1874 và giải thích vì sao nhà Nguyễn đã không biết tận dụng những cơ hội này?
Các bạn gợi ý giúp mình câu hỏi này nha.cảm ơn các bạn
*Những cơ hội mà Việt Nam có khả năng đánh bật thực dân Pháp ra khỏi lãnh thổ :
+Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được điều động từ Đà Nẵng vào chỉ huy Mặt trận Gia Định. Thời gian này, quân Pháp rút sang Trung Quốc để đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân Trung Quốc, chỉ để lại 1000 quân ở Việt Nam, trong khi Nguyễn Tri Phương có 12000 quân lại không dám tấn công chỉ thực hiện chiến thuật phòng ngự, bỏ qua một cơ hội đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước ta.
+Trận cầu giấy lần thứ nhất(1873) quân dân ta đã chặn đánh và tiêu diệt toàn bộ quan Pháp, giết được tên chỉ huy là Gacsnie, thực dân pháp hoang mang lo sợ phải tìm cách thương lượng với triều đình Huế. Quân và dân ta phấn khởi muốn xốc tới dành thắng lợi, song triều đình huế vừa sợ Pháp vừa sợ nhân dân nên đã đánh mất cơ hội đánh thắng pháp mà kí hiệp ước 1874
*Nhà Nguyễn không biết tận dụng cơ hội này vì:
+Từ khi thành lập, nhà Nguyễn đã thi hành chính sách bảo thủ.
+Trong quá trình chiến đấu, nhà nguyễn đã không có nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo mà chọn con đường sai lầm lớn là từ bỏ con đường đấu tranh, chủ đọng chống pháp mà đi vào con đương phòng ngự bị động, thương lượng .
+Nhà Nguyễn không kiên định với nhân dân kháng chiến mà còn tạo điều kiện cho pháp bảo toàn lực lượng.
+Trong quá trình kháng chiến nhà Nguyễn đã bỏ qua nhiều cơ hội để phản công và thắng pháp.
+Do triều đình có tư tưởng sợ pháp, không thấy tình hình mà chỉ thấy pháp vượt trội về vũ khí.
+Triều đình không tin vào năng lực kháng chiến của nhân dân. Có ảo tưởng thông qua thương thuyết để lấy lại các tỉnh đã mất
kết quả và ý nghĩa của trận đà nẵng và gia định
giúp em với ạ
Lí giải được trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn trong việc để mất nước vào tay thực dân Pháp
a. Trước khi Pháp xâm lược
Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến trên tất cả các mặt :chính trị:nhà Nguyễn xây dựng một chính quyền chuyên chế độc đoán, tăng cường bảo vệ quyền lợi của dòng họ, lấy chỗ dựa là địa chủ, cường hào. kinh tế thì sa sút, công thương nghiệp bế tắc, xã hội mâu thuẫn,nhũng cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ...Những chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Nguyễn đã đặt nước ta vào tình thế hết sức bất lợi trước sự xâm lược của tư bản phương tây:tài lực, vật lực khánh kiệt, lòng dân li tán, binh sĩ bạc nhược, kém cỏi...Những bài học về "khoan thư sức dân" "thực túc binh thường" của các thế hệ trước , thì nhà Nguyễn đều không đáp ứng được vì thế khi Pháp xân lược thì quân và dân của nhà đã hết, sức đã kiệt, nhà Nguyễn không phát động được 1 cuộc kháng chiến toàn dân. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến Việt Nam rơi vào tay Pháp.
=> như vậy trách nhiệm của nhà Nguyễn với tư cách của một triều đại lãnh đạo quản lí đất nước trước nguy cơ xâm lược từ bên ngoài đã không có những biện pháp để nâng cao sức mạnh tự vệ mà còn thi hành những chính sách thiển cận,sai lầm làm cho tiềm lực quốc gia suy kiệt, hao mòn sức dân không còn khả năng phòng thủ đất nước, tạo điều kiện cho Pháp dẩy mạnh xâm lược
b.Khi Pháp vào xâm lược nhà Nguyễn với tư cách là người đứng ra lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến đã tiếp tục mắc phải những sai lầm trong đường lối đánh giặc đưa đến hậu quả nước ta rơi vào tay Pháp
-Ngay từ đầu trước cuộc xâm lăng của kẻ thù, triều đình đã có ý thức chuẩn bị kháng chiến nhưng sự chuẩn bị này lại chậm trễ, bị động, thiếu tích cực và trong quá trình kháng chiến triều đình có tư tưởng ngại địch, sợ địch không chủ động tấn công nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh giặc (dẫn chứng)
-Triều đình đã sử dụng đường lối thủ để hoà, ảo thưởng về kẻ thù, trông chờ vào lương tâm, hảo ý của địch nên đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác xuất phát từ những toan tính ích kỉ muốn bảo vệ quyền lợi dòng họ nên từ chỗ kháng cự yếu ớt đến đầu hàng(d/c: lần lượt kí các bản hiệp ước đầu hàng)
-Triều đình đã không biết phát huy cuộc kháng chiến toàn dân không phối hợp với nhân dân đánh giặc đến cùng mà đã từng bước bỏ rơi, ngăn cản cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống Pháp.
-Triều đình sai lầm trong chủ trương cầu viện bên ngoài.
- Triều đình tiếp tục duy trì đường lối bảo thủ, khước từ mọi đề nghị canh tân , đổi mới đất nước.
Về khách quan, chúng ta cần phải đặt triều Nguyễn trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới để thấy được nguyên nhân khách quan dẫn tới việc thực dân nổ súng phát động chiến tranh xâm lược vào năm 1858. Đó cũng là nguyên nhân khách quan áp đặt từ bên ngoài ngoài ý muốn chủ quan của chính quyền các nước (trong đó có Việt Nam). -Vào nửa đầu thế kỉ XIX, hầu hết các nước tư bản trên thế giới phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tìm kiếm thị trường đặc ra yêu cầu bức thiết, cuộc chạy đua ráo riết giữa các nước tư bản (trong đó có Pháp) săn tìm các thuộc địa diễn ra gây go và quyết liệt. Châu Á, trong đó có khu vực Đông Nam Á, Viêt Nam không thể không nằm trong quĩ đạo này đã trở thành đối tượng săn lùng, nhòm ngó, là cái bánh ngọt hấp dẫn cho bọn tư bản phương Tây. -Với những lí do cơ bản là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đất rộng người đông. Tư bản pháp từ sớm đã có nhiều hoạt động để giao lưu với Việt Nam mang tính liên tục và ngấm ngầm với một đội quân giáo sĩ, thương nhân gián điệp rình rập chờ cơ hội. Việt Nam đương nhiên phải đối đầu với nguy cơ xâm lược. Và cuối cùng không tránh khỏi sự tấn công của thực dân Pháp với những ưu thế tuyệt đối của nó. Trong bối cảnh này, hầu hết các nước trong khu vực đều bị tư bản phương Tây thôn tính (trừ Xiêm).*Về chủ quan, đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan trên, còn phải đề cập đến một nguyên nhân chủ quan trong bối cảnh chung của khu vực mà các nước khác không có.-Trước đó, do bị Tây Sơn đánh tả tơi, Nguyễn Ánh đã đi cầu viện nước Pháp. Ngày 28/11/1787, tại Paris, đại diện của Nguyễn Ánh và chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước 10 điểm, theo đó Pháp cam kết giúp binh thuyền, quân đội và chiến cụ theo yêu cầu của chúa Nguyễn. Còn Nguyễn Ánh cam kết sẽ nhường chủ quyền cửa Hàn (Đà Nẵng) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Nước Pháp được lập xưởng trên đất liền để sửa chữa tàu thuyền… Mặc dù Hiệp ước không được thực hiện song chính là cái cớ để Pháp xâm lược nước ta vào giữa thế kỉ XIX, một nguyên nhân tuy chủ quan nhưng hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh khi tranh thủ sự trợ giúp quân sự của Pháp.
Nguyên nhân khách quan và chủ quan như đã đề cập ở trên là rõ ràng. Nhưng đó chưa phải là yếu tố quyết định việc nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thôn tính.- Việc mất nước vào tay Pháp là do trách nhiệm chủ quan của triểu đình nhà Nguyễn. Điều này không riêng gì về các vua nhà Nguyễn mà có sự liên đới đến các hệ thống quan chức quan liêu, bảo thủ xử sự và hành động theo tư tưởng Tống Nho cổ hủ và hẹp hòi.
Có ý kiến cho rằng việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp là do trình độ dân trí của ta thấp kém so với thực dân Pháp, văn minh nông nghiệp Á Đông lạc hậu so với văn minh công nghiệp phương Tây. Khẳng định như vậy, không phản ánh đúng trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước, điều đó chẳng khác nào là định mệnh, bất khả kháng. Đánh giá như vậy, chẳng khác nào việc mất nước là tất yếu, yếu thua mạnh, người văn minh chiến thắng người lạc hậu.
Để làm rõ trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc để mắt nước vào cuối thế kỉ XIX, phải thấy được việc mất nước là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng chuyển sang tất yếu. Điều này có nghĩa là, ngay từ khi bắt đầu xâm, lược Việt Nam (1858), khả năng đánh bại Pháp dưới sự lãnh đạo của triều đình không phải là không có, mà do chính sách sai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến thắng của quân ta ngày càng hao mòn, khiến địch ngày càng lấn lướt, từng bước thôn tính nước ta. Dẫn chứng cho điều này là trong thời kì đầu khi Pháp xâm lược nước ta cúng đã vấp ngã trước sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta dưới ngọn cờ của triều đình, có lúc chúng tính chuyện rút quân về nước trong lúc gặp nguy nan. Thế nhưng càng về sau, quá trình chiến đấu bị giảm sút, suy yếu dần đã bộc lộ sự bất lực và yếu hèn của triều đình. Họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khá quá cảnh giác với bọn thực dân nên đã tiến hành chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng, không tổ chức toàn dân chống giặc, mà còn quá nhu nhược, thẳng tay đàn áp phong trào quần chúng, bóc lột nhân dân… ngoài ra lại dựa vào nhà Thanh để chống Pháp. Song nhà Nguyễn đã thỏa hiệp với thực dân Pháp trên số phận của Đại Nam, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác (Hòa ước năm Nhâm Tuất 1862, Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 và cuối cùng là Hòa ước Patơnốt năm 1884). Với Hòa ước 1884, Đại Nam hoàn toàn mất độc lập, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp, bị Pháp đô hộ.Nhận định tình hình nước ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lược, có thể khẳng định chế độ phong kiến Việt nam đang ngày càng suy yếu, lực lượng vật chất và tinh thân của nhân dân đang bị triều Nguyễn hủy hoại, chỉ có thể cứu vãn nguy cơ mất nươc nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đường cho xã hội tiến lên theo hướng mới, tăng cường năng lực vật chất và tinh thần trong nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nước. Muốn vậy, chỉ có thể thực hiện được bằng cách điều chỉnh các mối sung đột giữa địa chủ với nông dân, giữa giai cấp phong kiến ngoan cố với thành phần tư sản chớm nở, chấn chỉnh quân đội, thu phục và cố kết nhân tâm, một yêu cầu mà nhà Nguyễn với tất cả những tồn tại và hạn chế của nó hoàn toàn không có khả năng đáp ứng.
Kết quả nước Pháp đã vượt qua những khó khăn của chúng để cuối cùng thôn tính hoàn toàn Việt Nam. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX là hiển nhiên, không thể chối cải.
Nước ta có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp không? Có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này.+ Quan điểm thứ nhất là chúng ta không thể tránh khỏi việc rơi vào vòng đô hộ của chủ nghĩa thực dân vì thực dân hóa là xu thế lúc bấy giờ, nhiều dân tộc ở Á, Phi đều không tránh nổi.+ Quan điểm thứ hai là Việt Nam có thể tránh được việc bị Pháp xâm lược, có thể chống xâm lược thắng lợi bởi dân ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước chống ngoại xâm. Hơn nữa, Đại Nam là nước có tầm cỡ trung bình, tương đối phát triển trong khu vực còn nước Pháp ở xa và có không ít khó khăn…
Thực tế việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX, chính một sử gia Pháp (Charles Gosselin) cho rằng: “Những vị Hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đỗ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có quyền được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không có dự liệu, không chuẩn bị gì hết” Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồi tưởng cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc ta ở Nam Bộ lúc bấy giờ…giá như triều đình lúc bấy giờ không ở trong tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục sự nghiệp của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn…thì phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam Bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là đã được lãnh đạo thống nhất và kiên trì đấu tranh cho đến thắng lợi, đồng thời phong trào ấy chắc được sự ủng hộ kiên quyết của cả nước, như vậy đất Đồng Nai anh dũng từ đó đã trở nên bức thành đồng ngăn chặn bọn cướp nước phương Tây xâm phạm đất nước ta ở Nam Bộ, và do đó đã bảo vệ vẹn toàn độc lập và thống nhất của Tổ quốc” Cũng nói về sai lầm của triều Nguyễn, có ý kiến cho rằng “ sai lầm của Tự Đức và một số đình thần là không thể tha thứ”, “Lịch sử có thể “thông cảm” với An Dương Vương vì “nỏ thần vô ý trao tay giặc” khiến đất nước rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc hơn 1000 năm, Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần làm cho “chính sự phiền hà” dẫn đến đại họa nước ta rơi vào ách thống trị của nhà Minh suốt 20 năm.An Dương Vương và cha con Hồ Quí Ly đã chiến đấu tới phút cuối cùng vì nền độc lập dân tộc. Kết cục người thì nhanh chóng nhận ra sai lầm của chính mình không thể sống nhìn đất nước bị kẻ thù dầy xéo, người thì trở thành chiến tù lưu đầy nơi viễn xứ. Riêng đối với nhà Nguyễn thì không phải trong trường hợp này, nó đã từng bước đầu hàng rồi làm tay sai cho kẻ thù thống trị nhân dân ta.Đánh giá về triều Nguyễn, trong “Lịch sử nước ta” (năm 1941), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Bị Tây Sơn đuổi chạy ra nước ngoài.Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.Nay ta mất nước thế này,Cũng là vua Nguyễn rước Tây vào nhà.Khác gì cõng rắn cắn gà,Rước voi dầy mả, thật là ngu si.Ngàn năm gấm vóc giang san,Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!Tội kia càng đắp càng đầy,Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”Giai đoạn triều Nguyễn với nhiều vấn đề đan xen giữa những tiến bộ và hạn chế, chậm chí những mảng đen trắng không rõ ràng, là giai đoạn phức tạp trong lịch sử dân tộc. Chúng ta cần có quan điểm khách quan, “công minh lịch sử” trong việc đánh giá mặt tích cực, cũng như mặt tiêu cực về triều Nguyễn. Trong đánh giá phải có quan điểm lịch sử và quan điểm giai cấp.Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XIX đã bị đặt vào tình rạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân dân cả nước, ngày càng lún sâu vào con đường nhượng bộ, cầu hòa và cuối cùng cấu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước. Đó là trách nhiệm, cũng là tội lớn của nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử.
vì sao VN vào thời kì chống Pháp lại lựa chọn chính sách"Bế quan tỏa cảng" , cấm đạo , giết đạo
Vì sao năm 1860, triều đình nhà Nguyễn lại bỏ qua cơ hội đánh Pháp?
- Đầu năm 1860 khi td Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến ở trung quốc và ý, lực lượng tại gia định chỉ còn 1000 tên lại phải rải trên chiến tuyến 10km, quân đội triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến chí hòa vs chủ trương thủ hiểm.
- Tháng 3 năm 1860, nguyễn tri phương đc lệnh từ đà nẵng vào gia định. Ông huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng ...( sgk lịch sử cơ bản 11 trang 110)
- Ở đông nam kì khi phong trào của nd đang lên cao thì triều đình vội vàng kí hiệp ước nhâm tuất 1862...
- Chiến thắng cầu giấy lần thứ nhất(21-12-1873) làm cho nd phấn khởi, td pháp hoang mang lo sợ tìm cách thương lượng thì triều đình kí hiệp ước giáp tuất...
- Chiến thắng cầu giấy lần hai( 19-5-1883) một lần nữa đem đến cơ hội cho triều đình hợp tác cùng nd chống pháp nhưng triều đình lại nuôi ảo tưởng thương thuyết vs td pháp...