Bài 19. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)

Bùi Thị Thanh Hoa
Xem chi tiết
Thảo Phương
18 tháng 4 2017 lúc 22:03

Tích cực “đánh vào lòng người”, làm lung lay ý chí quân xâm lược, tăng thêm sức mạnh cho các lực lượng tiến công. Đây là nghệ thuật kết hợp tài tình, khéo léo giữa chính trị với quân sự của Nghĩa quân, nhằm mục đích giành thắng lợi với tổn thất ít nhất không chỉ cho ta mà cho cả địch. Khi biết Liễu Thăng chỉ huy một đạo quân tiến vào nước ta, để kích động tính kiêu ngạo, khinh thường kẻ khác của Liễu Thăng, Nguyễn Trãi đã khéo léo dụ Liễu Thăng bằng những lời lẽ của người chắc thắng (nên lui quân, nếu không sẽ bị đánh, hối không kịp), làm cho Liễu Thăng càng hung hăng, mất cảnh giác. Vốn là tên tướng kiêu ngạo, khi nhận được thư của Nguyễn Trãi, Liễu Thăng đã không thèm quan tâm, cứ dẫn quân tiến vào Chi Lăng. Đối với đạo quân của Mộc Thạnh, Nghĩa quân Lam Sơn sử dụng nghệ thuật “khuếch trương chiến quả” bằng tin thắng lợi của các trận Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát (mang bằng sắc, ấn tín của Liễu Thăng) và bức thư của Lê Lợi đến báo tin cho Mộc Thạnh biết rằng đạo quân Quảng Tây đã bị thiệt hại nặng, đang sắp bị tận diệt. Mộc Thạnh nhận được thư, trông thấy ấn tín, bằng sắc của Liễu Thăng và nghe tin Lương Minh, Lý Khánh tử trận, vô cùng kinh hãi “sợ mà vỡ mật” (Bình Ngô đại cáo). Hắn vội vàng ra lệnh rút quân về nước ngay trong đêm và một mình một ngựa tẩu thoát về Vân Nam. Trận này, Nghĩa quân toàn thắng “mà không tốn một mũi tên” (Bình Ngô đại cáo). Trong lúc quân địch bị bao vây khốn đốn, Nguyễn Trãi lại gửi cho địch một bức thư như một tối hậu thư, nói rõ là mở đường về cho chúng, trong ba ngày phải lên đường... đã làm lung lay ý chí quân xâm lược, tạo điều kiện cho trận Xương Giang toàn thắng.

Bình luận (0)
Phương Anh Lê
12 tháng 1 2018 lúc 20:09

Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10, năm 1427 giữa lực lượng khởi nghĩa Lam Sơn của Việt Nam và 2 đạo quân viện binh nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Quân Lam Sơn đã giành được chiến thắng quyết định.

Chiến thắng này khiến cho tướng nhà Minh là Vương Thông hết hy vọng, quyết định giảng hoà, khi chưa được sự cho phép của triều đình nhà Minh.

Bình luận (0)
Hằng Nguyễn
Xem chi tiết
Trà Giang
14 tháng 1 2018 lúc 13:52

Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) (chữ Nôm: 起義藍山) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê.

Khởi nghĩa Lam Sơn gồm 3 giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427). Trong giai đoạn đầu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh, mặc dù vẫn có những trận họ đánh thắng quân Minh và họ cũng từng đánh bại được quân Ai Lao cấu kết với quân Minh. Quân khởi nghĩa bắt đầu giành thế thắng khi Lê Lợi tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Họ đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đỉnh điểm là đại thắng ở Tân Bình, Thuận Hóa. Cuối cùng, vào năm 1426, giữa lúc quân khởi nghĩa đang trên đà thắng lợi và tiếng tăm của Lê Lợi lên cao, quân khởi nghĩa tiến đánh thành Đông Quan, và đánh tan nát quân Minh trong trận Tốt Động - Chúc Động. Bước sang năm 1427, nghĩa quân đập tan tác 10 vạn viện binh của đối phương trong trận Chi Lăng - Xương Giang, giết chết viên chỉ huy quân Minh là Liễu Thăng. Họ thu được nhiều chiến mã, lại còn bắt sống và tiêu diệt được nhiều tướng Minh.[2][3] Cuối cùng, người Minh phải giảng hòa và thoái binh về nước, khiến cho nước Đại Việt không còn một mống quân xâm lăng. Một văn thần trong quân khởi nghĩa là Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê Lợi đã viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc biết về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn.[3][4]

Bình luận (0)
Huỳnh Ngọc Lộc
17 tháng 1 2018 lúc 14:48

Mỗi đạo quân có những nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhưng nhiệm vụ chung của cả ba đạo quân là tiến sâu vào vùng chiếm đóng của địch, kết hợp cùng nhân dân nổi dậy bao vây đồn địch, giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới, chặn đường tiếp tế của quân Minh.

Bình luận (0)
Quynh Giao
Xem chi tiết
Trà Giang
14 tháng 1 2018 lúc 14:03

rong áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi - người Anh hùng giải phóng dân tộc đề cập đến nghệ thuật đánh giặc, cứu nước tài tình của nghĩa quân Lam Sơn là: “Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ/Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục”1. Trong đó, trận Tốt Động - Chúc Động (07-11-1426) khiến cho quân giặc “… thây phơi đầy nội, thối để ngàn thu” là một điển hình của nghệ thuật đánh mai phục, được nêu trong áng văn.

Trận Tốt Động - Chúc Động diễn ra trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chuyển thành chiến tranh giải phóng và đang ở vào giai đoạn cuối. Theo nhận định của Lê Lợi, lúc này “Thế giặc ngày một suy, quân ta ngày một mạnh, thời cơ đã đến mà không hành động ngay sợ lỡ mất cơ hội2.

Thực hiện chủ trương trên của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, một bộ phận của Nghĩa quân chủ động triển khai lực lượng mai phục đập tan cuộc phản công của địch ngay trên đường hành quân. Khi quân viện binh của địch vừa đến Đông Quan, chúng không nghỉ ngơi, vội mở cuộc phản công ngay nhằm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đang hoạt động ở gần thành Đông Quan để giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường. Theo đó, một lực lượng nhỏ ở lại giữ thành, còn gần 10 vạn quân chia làm 3 đạo quân: Đạo quân thứ nhất do Vương Thông chỉ huy, đóng ở bến Cổ Sở trên sông Đáy và con đường từ phía Tây đến Đông Quan; Đạo quân thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy, đóng ở cầu Sa Đôi trên sông Nhuệ; Đạo quân thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy, đóng ở cầu Thanh Oai trên sông Đỗ Động và con đường bộ từ phía Tây Nam đến Đông Quan. Ba đạo quân của địch đã chiếm giữ những yếu địa thuộc các đầu mối giao thông thủy, bộ phía Tây và Tây Nam Đông Quan. Từ đây, quân Minh hình thành 3 mũi tiến công nhằm vây quét, triệt hạ các căn cứ của Nghĩa quân ở Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) do hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy. Nắm vững âm mưu của địch, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện cho quân tạm rời căn cứ để “tránh mũi nhọn của giặc”; đồng thời, chọn đạo quân thứ ba của địch đóng ở cầu Thanh Oai làm mục tiêu tiến công. Đây là đạo quân yếu nhất trong ba mũi tiến công của địch: cách xa đại bản doanh Cổ Sở, binh lực ít, Sơn Thọ, Mã Kỳ không phải là tướng thiện chiến. Nghĩa quân vừa gấp rút bố trí quân mai phục ở cánh đồng Cổ Lãm (Thanh Oai, Hà Tây), vừa đem quân ra khiêu chiến, nhử địch ra khỏi doanh trại, dẫn dắt chúng vào trận địa mai phục để tiêu diệt. Không chút nghi ngờ, Sơn Thọ, Mã Kỳ dốc toàn bộ binh lực ra truy đuổi và lọt vào giữa trận địa mai phục. Với nghệ thuật chọn địa hình có lợi, bố trí quân mai phục khéo léo, tài tình của tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện, từ các vị trí mai phục, Nghĩa quân xông ra chặn đầu, khóa đuôi và áp sát tiến công vào hai bên sườn quân địch. Bị đánh bất ngờ và ở vào thế bất lợi, quân địch lúng túng, bị động, chống đỡ, chạy tán loạn hòng thoát thân, nhưng hơn 1.000 quân phải bỏ mạng. Sơn Thọ, Mã Kỳ và đám tàn quân mở đường máu, chạy về Đông Quan. Nghĩa quân tiếp tục truy kích đến cầu Nhân Mục, bắt sống 500 tên. Thừa thắng, Nghĩa quân tiến lên đánh thẳng vào Đạo quân thứ hai của địch đóng ở cầu Sa Đôi. Hoảng sợ trước sức mạnh của Nghĩa quân, Phương Chính không dám nghênh chiến, vội rút quân về Cổ Sở.

Như vậy, với nghệ thuật chủ động, linh hoạt bố trí quân mai phục, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện đã chỉ huy một bộ phận Nghĩa quân bẻ gãy hai cánh quân của địch đóng ở cầu Sa Đôi và Thanh Oai. Tiếp đó, đem quân khiêu chiến tại đại bản doanh của Vương Thông ở Cổ Sở để thăm dò lực lượng, ý định tác chiến của chúng, xây dựng cách đánh cho Nghĩa quân nhằm đập tan cuộc phản công, tạo thuận lợi bao vây tiêu diệt gọn thành Đông Quan. Qua trận đánh khiêu chiến, tướng quân Lý Triện nhận thấy, quân của Vương Thông còn rất mạnh, nên chủ động cho Nghĩa quân hủy bỏ doanh trại, rút về Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây). Từ Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà Nội), đạo quân Lam Sơn do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, cũng bí mật về hội quân ở Cao Bộ. Hai đạo quân phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị một thế trận lợi hại quyết đập tan cuộc phản công của Vương Thông, giành thắng lợi.

Tin trinh sát và tài liệu khai thác tù binh giặc cho biết, để chuẩn bị tiến đánh Cao Bộ, Vương Thông chia lực lượng làm hai đạo chính binh và kỳ binh. Vương Thông chỉ huy chính binh sẽ qua sông Ninh, Chúc Động (Chúc Sơn) đánh thẳng vào Cao Bộ. Đạo kỳ binh cũng bí mật vượt sông Ninh, đi nhanh qua Tốt Động, Yên Duyệt đánh vào phía sau Cao Bộ. Chúng thống nhất kế hoạch bắn pháo hiệu khi đến vị trí quy định để phối hợp cùng tiến công Cao Bộ từ hai mặt (trước và sau). Phân tích kỹ kế hoạch tác chiến của địch, các tướng lĩnh của Nghĩa quân quyết định “tương kế, tựu kế” để đánh địch. So sánh lực lượng thấy bất lợi cho ta, nhưng quân của nghĩa quân Lam Sơn đều là lực lượng thiện chiến, tinh nhuệ, giỏi đánh mai phục. Để phát huy sở trường của Nghĩa quân, các tướng lĩnh quyết định chọn Tốt Động, Chúc Động – vùng đồng chiêm trũng, lầy lội, có nhiều gò đống cao và lau lách rậm rạp làm nơi giao chiến; chọn hình thức mai phục làm phương pháp tác chiến, nhằm tránh “sức mạnh của quân Minh”, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Dưới sự chỉ huy khôn khéo, tài tình của các tướng quân, chỉ trong thời gian ngắn, các lực lượng của Nghĩa quân bí mật vào các trận địa mai phục đã chọn trước, sẵn sàng chờ đón đánh địch.

Đúng như dự kiến, rạng sáng ngày 07-11-1426, Vương Thông cho đại quân xuất phát. Theo kế hoạch đã vạch ra, hai đạo kỳ binh và chính binh lần lượt vượt cầu Ninh Giang, tiến về Cao Bộ. Đạo kỳ binh theo đường tắt tiến nhanh về phía Cao Bộ, Đạo chính binh theo đường “Thượng đạo” tiến đến phía trước Cao Bộ. Đạo quân này di chuyển ồ ạt, phô trương thanh thế vừa để uy hiếp, vừa để thu hút quân ta về phía trước mặt Cao Bộ, mất cảnh giác, quên đề phòng phía sau. Khi đạo kỳ binh địch đến địa phận Tốt Động thì cũng là lúc đạo chính binh của chúng qua hết cầu Ninh Giang sang bờ Nam sông Ninh. Lúc đó, Nghĩa quân nổ pháo, cả hai đạo quân địch đều tưởng là pháo lệnh của mình, xô nhau tiến gấp để mau chóng thực hiện mệnh lệnh tiến công. Vậy là cả hai cánh quân của địch đã “bí mật” tiến quân một cách dễ dàng vào cánh đồng Tốt Động, Chúc Động. Đối với Nghĩa quân, theo kế hoạch đã thống nhất, khi nghe thấy pháo lệnh thì “vẫn nằm im không được nhúc nhích3. Địch càng chủ quan cho rằng kế hoạch của chúng hoàn toàn bí mật và sẽ đánh úp được Nghĩa quân. Trong lúc ở cả hai nơi Tốt Động và Chúc Động, trời mưa càng làm cho khu vực giao chiến đã lầy lội lại càng khó đi; người, ngựa đều bị sa lầy trên cánh đồng. Khi cả hai đạo quân của địch đã lọt vào giữa trận địa mai phục, lực lượng ta mai phục ở các vị trí đồng loạt xông ra đánh quyết liệt. Địch hoảng loạn, không kịp trở tay đối phó, giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Bị đánh bất ngờ, hơn 5 vạn quân địch chết tại trận, hơn 1 vạn quân bị bắt sống. Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng bị giết tại trận. Một bộ phận quân địch chạy về phía sông Ninh để về Đông Quan bị “chết đuối rất nhiều, nước sông Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”4. Theo dân gian truyền tụng: Khúc sông Ninh bị nghẽn, tắc vì xác giặc quá nhiều đến nay vẫn còn vết tích gọi là sông Lấp hay Tắc Giang. Vì bị tắc, dòng sông Ninh (sông Đáy) phải chảy vòng sang bên tả ngạn, tức khúc sông Mai Lĩnh ngày nay. Chủ tướng địch là Vương Thông bị thương, chạy được về Đông Quan.

Chiến thắng oanh liệt ở trận Tốt Động – Chúc Động của Nghĩa quân không những làm khiếp đảm quân xâm lược mà còn làm thay đổi cục diện chiến tranh, đẩy địch vào thế bị vây hãm, không thể thực hiện được bất cứ một cuộc phản công nào. Chỉ sau vài canh giờ chiến đấu, đã có gần 7 vạn quân địch bị chết tại trận, chết đuối và quân ta “bắt sống hơn 1 vạn tên giặc, thu được ngựa, quân tư, khí giới, xe cộ nhiều không kể xiết5. Cuộc phản công lớn của địch do đích thân Tổng binh Vương Thông chỉ huy đã bị thất bại hoàn toàn. Ngay sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, Nghĩa quân thừa thắng tiến công các căn cứ bảo vệ vòng ngoài thành Đông Quan, chờ đại quân do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đang đứng chân ở Thanh Hóa. Dưới sự chỉ huy tài tình, sắc sảo của Bộ thống soái, quân và dân ta bắt đầu vây hãm thành Đông Quan và đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường. Khu giải phóng ngày càng được mở rộng, nối liền từ Nam ra Bắc, quân Minh chỉ còn chiếm giữ và cố thủ ở trong một số ít thành lũy.

Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một chiến thắng to lớn nhất, rực rỡ nhất, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhất và đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất trong suốt 9 năm chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn, kể từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ đến bấy giờ. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã đẩy quân địch vào hẳn thế phòng ngự bị động. Từ đó, thế và lực của địch ngày càng sa sút, chỉ còn đủ sức cố thủ trong một số thành lũy, chờ quân cứu viện, không còn khả năng thực hiện một cuộc phản công nào. Quân và dân ta nhân đà thắng lợi, tiến công và vây hãm các thành lũy của địch; đồng thời, tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng về mọi mặt, củng cố khu vực giải phóng và chuẩn bị điều kiện tiến lên tiêu diệt viện binh địch, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh. Trận Tốt Động - Chúc Động – điển hình về nghệ thuật đánh mai phục của nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn nguyên giá trị cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Bình luận (0)
Hoàng Mạnh Thông
11 tháng 1 2018 lúc 21:55

Hành động này đã nói lên niềm tin ,lòng trung thành ,tinh thần hi sinh vì sự nghiệp chung của đất nước ,của các tướng lĩnh nghĩa quân .Với sự hi sinh của Lê Lai ,nghĩa quân Lam sơn ko chỉ bảo toàn được lực lượng chỉ đạo nòng cốt mà còn giữ vững được tinh thần bất khuất ,chiến đấu kiên cường ,buộc kẻ thù phải chấp nhận giảng hoà.Việc Lê Lai hi sinh để liều mình cứu chúa là một hành động dũng cảm, giúp bảo vệ mạng sống cho vua Lê Thái Tổ, bảo toàn được lực lượng chỉ đạo giúp cho những trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi sau này.

Bình luận (0)
Tiểu thư tinh nghịch
12 tháng 1 2018 lúc 11:58

Việc Lê Lai hi sinh để liều mình cứu chúa là một hành động dũng cảm, giúp bảo vệ mạng sống cho vua Lê Thái Tổ, bảo toàn được lực lượng chỉ đạo giúp cho những trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi sau này.

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hoàng Dung
11 tháng 1 2018 lúc 20:10

Lê Lai có công lao giúp đỡ Lê Thái Tổ gây dựng sự nghiệp. Câu chuyện ông hy sinh thân mình cứu Lê Thái Tổ thoát khỏi vòng vây của quân Minh được và đời sau truyền tụng, gọi là Lê Lai cứu chúa

Bình luận (0)
Nguyen Thanh
Xem chi tiết
Monkey D. Luffy
10 tháng 1 2018 lúc 21:22

Tháng 9-1426 nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân:

* Đạo thứ nhất tiến ra giải phóng Tây Bắc chặn viện binh địch từ Vân Nam sang .

* Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Hồng , và chặn đường rút quân từ Nghệ An về Đông Quan , và chặn viện binh từ Quảng Tây sang .

* Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan .

-Nhiệm vụ giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới ,chặn viện binh địch ; đã tiêu diệt hàng ngàn tên địch, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan để cố thủ .

Bình luận (0)
7C Victory
Xem chi tiết
fghfghf
10 tháng 1 2018 lúc 18:27

Chúc bn học tốtok

 

Thời gian

Sự kiện

Năm 1416

Bộ chỉ huy nghĩa quân được thành lập ở Lũng Nhai(Lê Lợi và 18 người)

Năm 1418

Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh hóa) và tự xưng là Bình Định Vương.

Năm 1421

Quân Minh huy động 10 vạn lính tấn công lên Lam Sơn, Lê Lợi phải rút quân phải rút lên núi Chí Linh

Năm 1423

Nghĩa quân tạm thời hòa hoãn với quân Minh

Năm 1424

Nghĩa quân rời miền núi Thanh hóa tiến vào Nghệ an

Năm 1425

Giải phóng Tân Bình- Thuận Hóa

Tháng 9.1426

Nghĩa quân chia quân làm ba đạo tiến ra Bắc

Tháng 11.1426

Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động

10.1427

Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang, chiến tranh kết thúc

12.1427

Hội thề Đông Quan diễn ra, quan Minh rút quân về nước.

Bình luận (1)
Kirigaya Kirito
Xem chi tiết
nguyệt nguyen
Xem chi tiết
Lê Quỳnh Trang
4 tháng 1 2017 lúc 18:55

Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.

Bình luận (0)
Lê Quỳnh Trang
4 tháng 1 2017 lúc 18:56

Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng Giêng năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.

Theo chính sử, thành được xây dựng rất khẩn trương, chỉ trong 3 tháng. Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành bao gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.

Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài 870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền - hậu - tả - hữu (Cửa Tiền hay còn gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai). Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn).

Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di tích còn lại hiện nay là 4 cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường thành và đặc biệt là Di tích Đàn tế Nam Giao còn khá nguyên vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính điện chạm một đôi tượng rồng đá rất đẹp dài 3,62 m.

Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào[2]. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.

Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao

Bình luận (1)
Lê Hiếu
5 tháng 1 2017 lúc 10:55

– Năm 1858 Thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau hiệp ước Patơ nốt(1884), triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp.

– Năm 1897 Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Sau 1918 là chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2 với quy mô và tốc độ lớn hơn lần trước.

Về chính trị: Thực dân Pháp đã tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn lợi dụng triệt để bộ máy cai trị cũ của chế độ phong kiến phục vụ cho việc áp bức nhân dân Việt Nam. Chúng chia Việt Nam ra thành ba xứ: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và chúng thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.

Về Kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư vốn khai thác tài nguyên (than, thiếc, kẽm), xây dựng một số cơ sở công nghiệp(điện, nước) Xây dựng hệ thống đường bộ, thuỷ, bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của nước Pháp.

Kinh tế Việt Nam ngày càng nghèo nàn, lạc hậu,què quặt và phụ thuộc vào kinh tế Pháp.

Về văn hoá

– Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá giáo dục thực dân: dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu…

– Ngăn cấm, phá hoại bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam, Ngăn cấm văn hoá tiến bộ thế giới du nhập vào Việt nam.

*Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:

Các cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc.

+ Giai cấp địa chủ Việt Nam: Gia cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng trong cường bóc lột áp bức nông dân.Tuy nhiên trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước căm thù giặc tham gia đấu tranh chống

– Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

+ Giai cấp nông dân: Chiếm 90% dân số Việt Nam. Họ phảI chịu 2 tầng áp bức bóc lột của Thực dân và phong kiến. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm thêm ý trí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do

+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của TDP. Có đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế (là lực lượng xã hội tiên tiến, đại diệncho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có tinh thần cách mạng triệt để)

Ngoài ra giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng

– Phải chịu 3 tầng lớp áp bức bóc lột (địa chủ, đế quốc, tư sản)

– Có mối quan hệ gần gũi với nông dân

– Nội bộ thuần nhất(ra đời trước tư sản) không có tầng lớp quý tộc

– Có tinh thần yêu nước nồng nàn đồng thời sớm tiếp thu những tư tưởng, trào lưu mới của thời đại vô sản

+ Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp, tư sản nông nghiệp. Ngay từ khi mới ra đời Giai cấp tư sản Việt Nam đã bị chèn ép, thế lực kinh tế và địa vị chính trị của Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt, vì vậy giai cấp tư sản không đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng dân tộc

+ Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, tri thức, thợ thủ công, những người làm nghề tự do…trong đó giới tri thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành người vô sản. Họ là những người có lòng yêu nước căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào, vì vậy đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao.

Tóm lại:

– Chính sách thống trị của Thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam, họ đều mang thân phận người dân mất nước, đều bị thực dân bóc lột.

– Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản. Trước hết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với Thực dân Pháp và tay sai, đây là mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến.

– Nhiệm vụ của cách mạngViệt Nam: Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam, nhưng Độc lập dân tộc là yêu cầu chủ yếu trước mắt, phản ánh nguyện vọng bức thiết của các giai cấp, tầng lớp trong dân tộc

Nguyên nhân bùng nổ, đặc điểm và nguyên nhân thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược Minh trước khởi nghĩa Lam Sơn :- Về nguyên nhân bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, cần liên hệ với chính sách cai trị tàn bạo của nhà Minh và hậu quả của những chính sách đó đưa đến sự bất mãn, căm thù của các quý tộc nhà Trần và lòng yêu nước bất khuất của nhân dân ta bấy giờ.- Cần chú ý đến thành phần xuất thân của người lãnh đạo, thời gian tồn tại và phạm vi không gian hoạt động để trả lời đặc điểm các cuộc khởi nghĩa.- Nguyên nhân thất bại của các cuộc khởi nghĩa, cần nêu được sự thiếu liên kết, phối hợp để tạo nên một phong trào chung, thống nhất, nội bộ những người lãnh đạo mâu thuẫn thiếu đoàn kết với nhau...

Bình luận (1)
Đan Nguyen
Xem chi tiết
Huỳnh Yến
26 tháng 12 2017 lúc 16:49

- Đoạn trích dưới đây và cho biết em liên tưởng đến sự kiện lịch sử: cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.

- Những hiểu biết của em về một số nhân vật lịch sử liên quan đến sự kiện mà em biết là: Nguyễn Chích, Lê Lai, Lê Lợi, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân,...

Bình luận (0)