Bài 17. Ôn tập chương II và chương III

vương thân bảo hân
Xem chi tiết
Fa Châu De
19 tháng 10 2018 lúc 18:45

Sau chiến thắng Bạch Đằng(938), năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, bỏ chức Tiết Độ Sứ của phong kiến phương Bắc, thiết lập một triều đình mới ở trung ương. Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc chính trị, ngoại giao, quân sự, đặt ra các chức quan văn, quan vox, quy định các lễ nghi trong triều. Ở địa phương, Ngô Quyên cử các tướng có công coi giữ các châu quan trọng. Đất nước được thái bình.

Bình luận (0)
Fa Châu De
19 tháng 10 2018 lúc 18:45

"quan võ" mình ghi sai chính tả.

Bình luận (0)
Huynh Linh
19 tháng 10 2018 lúc 18:57

-939 Ngô Quyền lên ngôi vua
-Chọn Cổ Loa làm kinh đô
-Bỏ chức tiết độ sứ
-Xây dựng chính quyền mới

Bình luận (0)
Natsukk
Xem chi tiết
Tâm Trà
18 tháng 11 2018 lúc 7:53

Ngô Quyền - quyết định bỏ chức Tiết độ sứ .

Đinh Tiên Hoàng - Đặt quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt.

Lê Hoàn - Đánh thắng quân Tống xâm lược lần thứ nhất.

Chuyển kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long - Lý Thái Tổ.

Bình luận (0)
lê văn hiền
Xem chi tiết
minh nguyet
15 tháng 10 2018 lúc 21:35

Năm 1070 lập Văn Miếu ở Thăng Long thờ Khổng Tử, dạy con vua học.
- Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên để chọn quan lại.
- 1076 mở Quốc tử giám cho con em quý tộc học, trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
- Học Nho học, và chữ Hán, bài thơ "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt.
- Giáo dục và thi cử còn hạn chế vì việc học chỉ giành cho con em vua, quan, nhà giàu.
- Phật giáo phát triển: do các nhà sư có học được triều đình và nhân dân tôn trọng.

Bình luận (6)
Thời Sênh
15 tháng 10 2018 lúc 22:16

Những sự kiện cho thấy giáo dục thời Lý phát triển là:

- Năm 1070 lập Văn Miếu ở Thăng Long thờ
Khổng Tử ,dạy con vua học .
- Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên để chọn quan
lại.

- 1076 mở Quốc tử giám cho con em quý tộc học , trường đại học đầu tiên của Việt Nam .

- Học Nho học, và chữ Hán, bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt .

Cái này bạn có thể tham khảo tại Lý thuyết Hoc24

Điểm hạn chế

- Giáo dục và thi cử còn hạn chế vì việc học chỉ giành cho con em vua, quan, nhà giàu

lần sau bn chỉ cần kéo thả tên mk là tag tên đc

Bình luận (2)
lê văn hiền
15 tháng 10 2018 lúc 21:41

Trần Thị Hà My ơi!? Giúp mk vs!?

Bình luận (3)
Lê Thu Hằng
Xem chi tiết
Hoàng Thanh Ngân
Xem chi tiết
Mai Thị Quỳnh Nga
26 tháng 12 2016 lúc 19:48

Cách đánh của Trần Quốc Tuấn

Khi giặc mạnh, ta chủ động vừa đánh vừa rút quân để bảo toàn lực lượng .
- Thực hiện "vườn không nhà trống" gây cho địch thiếu lương thực .
- Huy động tòan dân đánh giặc
- Khi thời cơ đến, phản công tiêu diệt địch lấy kế: "Lấy yếu đánh mạnh,lấy ít đánh nhiều"
Cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt:
- Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc.
- Tấn công quyết liệt.
- Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động,phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công.
- Sự kết hợp khéo léo giữa tiến công và phòng ngự tích cực.
Vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động

Ai thấy đúng thì cho em xin cái tik!

Bình luận (0)
Thùy Dung Trần
Xem chi tiết
Thùy Dung Trần
23 tháng 12 2017 lúc 20:08

gianroi

Bình luận (0)
Ngô Thành Chung
Xem chi tiết
đàm nguyễn phương dung
18 tháng 12 2017 lúc 18:46

Tên cuộc kháng chiến :

*Chống Tống :

- Thời gian :

+ Bắt đầu : 10/1075

+ Kết thúc : 3/1077

Tên cuộc kháng chiến :

Chống Mông- Nguyên :

Lần 1 :

- Thời gian :

+ Bắt đầu : 1/1258

+ Kết thúc : 29/1/1258

Lần 2 :

- Thời gian :

+ Bắt đầu :1/1285

+ Kết thúc : 5/1285

Lần 3 :

- Thời gian :

+ Bắt đầu : 12/1287

+ Kết thúc : 4/1288

*** Đường lối kháng chiến :

- Chống Tống: chủ động đánh giặc, buộc giặc phải đánh theo cách đánh của ta.

- Chống Mông- Nguyên: “vườn không nhà trống”.

***Tấm gương tiêu biểu

- Thời Lý: Lý Thường Kiệt, Lý Kế Nguyên…

- Thời Trần: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông…

Chỉ biết sơ sơ , thông cảm cho nha !

Bình luận (2)
Phạm Mỹ Dung
19 tháng 12 2017 lúc 7:51

I. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ 1258
1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông Cổ:
- Đầu thế kỷ XIII ,đế quốc Mông Cổ rộng lớn từ Thái Bình Dương đến Hắc Hải, rất giỏi về chinh chiến, cưỡi ngựa, bắn cung. Chúng xâm lược Đại Việt để chiếm đóng, cai trị, làm bàn đạp chiếm Nam Tống và xâm lược các nước Đông Nam Á.
- Vua Trần cho bắt giam sứ giả , ra lệnh chuẩn bị kháng chiến .

2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến và đánh bại quân Mông Cổ (kháng chiến chống quân Nguyện lần I (1258).
- Tháng 1-1258 Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy ba vạn quân Mông Cổ theo sông Thao tiến xuống Bạch Hạc, đến Bình Lệ Nguyên gặp tuyến chống cự của Vua Trần Thái Tông.
- Trước thế giặc mạnh, quân ta rút về Thiên Mạc để bảo toàn lực lượng .
- Giặc tiến vào Thăng Long , ta thực hiện “vườn không nhà trống”, chúng tàn phá Thăng Long và cướp bóc ở các làng chung quanh.
- Lúc này vua Trần hỏi ý kiến của Thái Sư Trần Thủ Độ, Ông đã khẳng khái trả lời :“Đầu tôi chưa rơi xuống đất , xin bệ hạ đừng lo”.
- Ở Thăng Long 1 tháng , chúng hết lương thực ,nắm thời cơ đó , quân ta đã đã phản công ở Đông Bộ Đầu , địch bị đánh bật khỏi Thăng Long chạy đến Quy Hóa bị Hà Bổng đánh tan, quân Mông Cổ chạy thẳng về nước. Kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi trong vòng nửa tháng, âm mưu xâm lược Đại Việt của kẻ thù bị chận lại.
* Chủ trương đánh giặc của nhà Trần :thực hiện “vườn không nhà trống”; tạm rút khỏi Thăng Long để bảo toàn lực lượng ;đẩy địch vào tình thế khó khăn, phát động chiến tranh nhân dân làm tiêu hao sinh lực địch , phản công lớn truy kích địch .

II Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên 1285.
1. Âm mưu xâm lược Champa và Đại Việt của nhà Nguyên :
- Ý đồ của nhà Nguyên:
+ Rửa nhục do thất bại lần thứ nhất.
+ Quyết tâm chiếm bằng được Đại Việt.
+ Làm cầu nối xâm lược các nước khác ở phía nam Trung Quốc .
- Năm 1279 vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt xâm chiếm Nam Tống lập ra nhà Nguyên, mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam.
- Năm 1283 Toa Đô chỉ huy đường biển tấn công Champa để làm bàn đạp tấn công phía Nam Đại Việt , sau đó phối hợp với Thoát Hoan đánh vào phía Bắc.

2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến:
- Năm 1282 hội nghị các vương hầu, quý tộc,quan lại ở Bình Than – Hải Dương bàn kế đánh giặc và chia quân đóng giữ ở các nơi hiểm yếu.Trần Quốc Toản “Phá giặc mạnh, báo ơn vua”.
- Cử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm tổng chỉ huy toàn quân, ông viết “Hịch Tướng Sĩ”, khơi dậy lòng yêu nuớc của nhân dân ta và khích lệ binh sĩ xông lên giết giặc, cứu nước bảo vệ quê hương.
- Đầu năm 1285, đại biểu phụ lão họp ở Điện Diên Hồng để bàn kế đánh giặc.
- Vua Trần chỉ huy tập trận , duyệt binh ở Đông bộ Đầu.
- Các chiến sĩ thích 2 chữ “Sát Thát”.
- Thể hiện quyết tâm cao độ chống giặc cứu nước, thà chết chứ không chịu đầu hàng.

3. Diễn biến và kết quả của cuộc kháng chiến ( Lần thứ 2 ) chống quân xâm lược Nguyên 1285:
- Cuối tháng 1-1285, Thoát Hoan đem 50 vạn quân Nguyên tràn vào nước ta.
- Sau khi quân ta chiến đấu anh dũng ở biên giới,thế giặc mạnh, Trần Hưng Đạo rút quân về Vạn Kiếp .
Vua Trần hỏi Trần Hưng Đạo có nên hàng không? Và được trả lời: “Xin hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng”. Không phải quân ta không có khả năng đánh tiếp, mà theo kế sách lấy yếu đánh mạnh
- Quân ta từ Vạn Kiếp rút về Thăng Long, giặc chiếm Thăng Long , quân ta rút về Thiên Trường.
Để bảo vệ cho cuộc rút quân chẳng may tướng Trần Bình Trọng bị giặc bắt, khi giặc hỏi : “Có muốn làm vương nước Nam không ?”, ông trả lời :”Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, giặc đã giết ông.
Ở phía nam Toa Đô đánh Nghệ An, Thanh Hóa, quân ta chiến đấu anh dũng.Thoát Hoan ở phía Bắc, Toa Đô ở phía Nam , tạo thế gọng kềm tiêu diệt chủ lực của ta ở Thiên Trường.
- Tình thế nguy ngập, để đánh lạc hướng và lừa giặc, Trần Hưng đạo cho rút quân về phía Đông bắc , sau chiếm lại Thanh Hóa củng cố lực lượng chuẩn bị phản công.
- Thất bại khi ở phía nam, Thoát Hoan rút về Thăng Long chờ quân tiếp viện và thiếu lương thực trầm trọng .
- Tháng 5- 1285 Trần Hưng Đạo phản công.Quân ta đánh bại quân giặc giặc khắp nơi, các chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương ,thừa -thắng ta giải phóng Thăng Long.
- Thoát Hoan rút khỏi Thăng Long, đến Vạn Kiếp bị quân ta phục kích chết rất nhiều, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy về nước.
- Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết . Một cánh quân khác chạy theo hướng tây bắc, đến huyện Phù Ninh , bị Hà Đặc, Hà Chương đánh tan..
- Sau 2 tháng tổng phản công quyết liệt ta giành thắng lợi
* Cách đánh của quân dân ta thời Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ hai 1285 :
- Khi giặc mạnh, ta chủ động vừa đánh vừa rút quân để bảo toàn lực lượng .
- Thực hiện “vườn không nhà trống” gây cho địch thiếu lương thực .
- Huy động tòan dân đánh giặc
- Khi thời cơ đến, phản công tiêu diệt địch lấy kế : “Lấy yếu đánh mạnh,lấy ít đánh nhiều” mà nhà Trần đã áp dụng ngay từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất.
* Nguyên nhân thắng lợi :nhà Trần chuẩn bị chu đáo,có quân đội mạnh, tinh thần quyết chiến đấu cao,kinh tế vững mạnh , nhân dân đoàn kết ủng hộ, huy động cả nước đánh giặc .

III Cuộc kháng chiến chống nguyên mông lần thứ 3
Sau khi tiêu diệt nhà Nam Tống, thôn tính toàn Trung Quốc, Hốt Tất Liệt lên làm vua lập ra triều Nguyên (năm 1271). Đây là đế quốc lớn mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Với thế và lực mới, Hốt Tất Liệt quyết tâm xâm lược Đại Việt, một đất nước có vị trí đặc biệt quan trọng trên con đường bành trướng xuống phía Nam của nhà Nguyên.

Đánh giá được âm mưu và hành động chuẩn bị chiến tranh của nhà Nguyên, triều Trần cũng lãnh đạo toàn dân khẩn trương triển khai kế hoạch chống xâm lược. Năm 1282, vua Trần Nhân Tôngtriệu tập Hội nghị Bình Than (vùng hiểm yếu sông Lục Đầu) gồm các vương hầu, tướng lĩnh hạ quyết tâm và bàn kế hoạch đánh giặc.

Sau đó, đầu năm 1285, vua Trần lại mở Hội nghị Diên Hồng triệu các bô lão đại diện nhân dân ở các địa phương về triều đình để thống nhất quyết tâm kháng chiến và động viên toàn dân đánh giặc. Khí thế "Sát Thát” náo nức trong toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân đội. Ông đã ra lời kêu gọi Hịch Tướng sĩ - một áng thiên cổ hùng văn bất hủ có ý nghĩa lớn, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào và ý thức trách nhiệm của người chiến binh trước sự mất còn của dân tộc. Các vương hầu hăng hái mộ quân, luyện tập sẵn sàng theo mệnh lệnh của triều đình. Các địa phương, dân binh được tăng cường, luyện tập, rào làng chiến đấu. Nhân dân phối hợp với quân đội chuẩn bị trận địa và cất giấu lương thực để làm kế thanh dã - vườn không nhà trống. Nhiều cuộc duyệt binh và diễn tập lớn được tổ chức ở kinh thành và những nơi xung yếu.

Nắm được tình hình điều động lực lượng và dự đoán kế hoạch tiến công của địch, quân ta cũng triển khai thế trận phòng thủ. Trên hướng Bắc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy một lực lượng chủ lực lớn đối đầu với lực lượng chính của địch. Trên hướng Tây Bắc, Trần Nhật Duật - vị tướng thông thuộc địa hình, phong tục tập quán vùng này, chỉ huy một đạo quân nhằm ngăn chặn quân Nguyên từ Vân Nam tiến sang. Ở phía Nam, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy một đạo quân trấn giữ ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh chặn đường đạo quân Nguyên đánh lên từ phía Nam. Việc chuẩn bị với quy mô lớn, nghiêm cẩn và chủ động. Xem cách bố trí phòng vF diễn biến chiến tranh, ta thấy Trần Quốc Tuấn chủ trương rút lui chiến lược rồi phản công chiến lược đánh tan quân địch.

Đầu năm 1285, 60 vạn quân Nguyên do con trai Hốt Tất Liệt là Trấn Nam vương Thoát Hoan làm tổng chỉ huy cùng lúc tiến đánh nước ta. Ở phía bắc, 50 vạn quân chia làm hai hướng: hướng Bắc, đạo quân chủ lực do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn. Hướng Tây Bắc theo sông Chảy đánh Yên Bái. Ở phía Nam, 10 vạn quân do Toa Đô chỉ huy từ Champa tiến ra.

Cánh quân Thoát Hoan đánh các đồn biên giới, vào Lộc Bình (Lạng Sơn), theo đường Lạng Sơn - Thăng Long, đánh xuống Chi Lăng. Trước thế mạnh của giặc, Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh cản địch một số trận rồi rút dần về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương) - vùng hiện nay có đền Vạn Kiếp thờ Trần Hưng Đạo, một di tích lịch sử, một danh thắng, nhân dân cả nước thường đến viếng quanh năm. Thoát Hoan lại tiến đến Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn đánh một trận nữa rồi theo đường sông rút về Thăng Long, sau đó rút khỏi Thăng Long về Trường Yên (Ninh Bình) và Thiên Trường (Nam Định). Quân địch vào Thăng Long rồi tiếp tục đánh xuống Trường Yên và Thiên Trường.

Cánh quân Naxirút Đin vào theo sông Chảy. Trần Nhật Duật đánh chặn ở vùng Yên Bái rồi rút về Bạch Hạc, sau đó về hợp quân ở vùng Nam Định, Ninh Bình.

Cánh quân phía Nam của Toa Đô tiến được ra Nghệ An. Quân ta đánh một số trận nhưng không cản được địch, Trần Quang Khải phải rút về Thanh Hóa rồi tiến ra Trường Yên. Trước tình thế bị đánh úp bằng hai gọng kiềm Bắc-Nam, để thoát khỏi vòng vây bảo toàn lực lượng, tạo và đón thời cơ phản công, Trần Quốc Tuấn cho một bộ phận nghi binh lên hoạt động ở vùng Đông Bắc thu hút sự chú ý của địch còn triều đình và đại quân thì vòng vào trấn giữ Thanh Hóa làm căn cứ. Đến đây, cuộc rút lui chiến lược của ta đã hoàn thành. Âm mưu bao vây tiêu diệt quân chủ lực và bộ máy đầu não đất nước ta của quân Nguyên đã bị thất bại.

Thoát Hoan chia quân đóng giữ những vị trí quan trọng và lập các trạm liên lạc với nhau. Quân chủ lực phối hợp với dân binh tổ chức đánh du kích ở vùng địch chiếm tạo thế và chuẩn bị phản công. Quân Nguyên bị tiêu hao, mỏi mệt, bị triệt đường tiếp lương, lại gặp mùa viêm nhiệt đến, ốm đau dịch bệnh phát sinh, đánh, giữ đều khó.

Nắm bắt thời cơ, tháng 5/1285, Trần Quốc Tuấn tổ chức phản công. Một loạt trận đánh lớn từ Trường Yên ra đến Thăng Long. Đó là các trận A Lỗ (Nam Định), Tây Kết, Hàm Tử (bờ sông Hồng thuộc địa phận Hưng Yên), Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây) phá vỡ tuyến phòng ngự dọc sông Hồng và đánh vào Thăng Long. Thoát Hoan phải rút chạy về Vạn Kiếp. Tại Vạn Kiếp quân ta đã bố trí một trận đánh lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Thoát Hoan cùng đám bại quân chạy về hướng Lạng Sơn. Tại đây phục binh ta đổ ra bao vây đánh tiêu diệt. Nhiều tướng lĩnh và binh lính Nguyên tử trận. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên độc cho quân lính khiêng chạy mới thoát chết về đến bên kia biên giới.

Đám quân Naxirút Đin còn lại tháo chạy về biên giới. Đến vùng Phú Thọ lại bị thổ binh (dân binh các dân tộc ít người) do Hà Đặc, Hà Thương chỉ huy chặn đánh tổn thất nặng.

Đạo quân Toa Đô từ Trường Yên theo đường biển vào sông Hồng định đến Thăng Long hội quân với Thoát Hoan, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta tiến công tiêu diệt phần lớn, Toa Đô tử trận.

Sau gần 6 tháng chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và quét sạch đạo quân xâm lược lớn ra khỏi bờ cõi.

Cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai thắng lợi hoàn toàn.

Bình luận (2)
Thời Sênh
8 tháng 1 2019 lúc 19:37
Tên cuộc kháng chiến Thời gian Đường lối kháng chiến Những gương tiêu biểu
Chống quân xâm lược Tống 1075 – 1077 Chủ động đánh giặc, buộc giặc đánh theo cách đánh của ta. Lý Thường Kiệt, Thân Cảnh Phúc, Lí Kế Nguyên…
Kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên

1258 (Lần 1)

1285 (Lần 2)

1287 - 1288 (Lần 3)

-Khi giặc mạnh rút lui bảo toàn lực lượng

-Thực hiện “vườn không nhà trống”.

-Khi giặc lâm vào thế khó khăn phản công tiêu diệt.

-Trong lần 3 diệt đoàn thuyền lương, lập trận địa trên sông Bạch Đằng.

Trần Quốc Tuấn , Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toàn…
Bình luận (0)
Nguyễn Đức Đại
Xem chi tiết
Phạm Linh Phương
2 tháng 3 2018 lúc 20:35

Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

-Nhân dân có tinh thần yêu nước, đoàn kết chiến đấu.

-Nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến, ủng hộ nghĩa quân.

-Có đường lối, chiến lược đúng đắn, sáng tạo.

-Có các anh hùng và tướng giỏi.

Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

-Kết thúc 20 năm bị đô hộ.

-Mở ra thời kì phát triển mới của đất nước.

Bình luận (0)
Thảo Phương
24 tháng 1 2019 lúc 15:49

Nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn bao gồm:

- Phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân đánh giặc.

- Nghĩa quân Lam Sơn được nhân dân ủng hộ.

- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, tinh thần quyết chiến đánh giặc, đã tham gia, giúp đỡ cuộc khởi nghĩa vượt qua mọi khó khăn.

- Có sự lãnh đạo tài tình, mưu lược của bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi... đưa ra những kế sách đúng đắn để đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi, biết kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao để chiến thắng kẻ thù.

Ý nghĩa:
- Kết thúc 20 năm đô hộ quân Minh
- Mở ra thời kì phát triển mới của đất nc
- Đập tan âm mưu xâm lược Minh
- Thể hiện lòng yêu nc và tinh thần nhân đạo sáng ngời

Bình luận (0)
Là Tôi Ngang Tàng
Xem chi tiết
Evil Princess
30 tháng 12 2017 lúc 13:39

* Nông nghiệp:

- Khuyến khích sản xuất, khai hoang mở rộng diện tích.

- Lập các làng xã, củng cố đê điều.

- Ruộng đất : + Ruộng đất làng xã

+ Ruộng đất tư phát triển.

⇒ Phục hồi và phát triển.

*Thủ công nghiệp:

- Thủ công nhà nước: làm đồ gốm, dệt, chế tạo vũ khí,...

- Thủ công nhân dân: gốm, rèn sắt, đúc đồng,...

- Lập ra những làng nghề, những phương nghề đạt được trình độ cao.

* Thương nghiệp: Buôn bán tấp nập trong và ngoài nước.

Bình luận (0)
Tên Của Tôi
Xem chi tiết
Thảo Phương
8 tháng 12 2017 lúc 20:09

Bình Ngô đại cáo là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam, sau bài Nam quốc sơn hà. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học với chức năng hành chính quan trọng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và là tác phẩm có chất lượng văn học tốt đẹp.

Nội dung:

Bài Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản và được viết theo thể văn biền ngẫu. Nguyên tác được viết bằng chữ Hán, và được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt. Kết cấu bài cáo gổm 5 đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu... đến Chứng cứ rành rành. : Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt.

Đoạn 2: Từ Vừa rồi... đến Trời đất chẳng dung tha. : Tố cáo và kết án tội ác tày trời của giặc Minh.

Đoạn 3: Từ Ta đây... đến Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.

Đoạn 4: Từ Rốt cuộc: Lấy đại nghĩa thắng hung tàn,... đến Mà cũng xưa nay chưa từng nghe thấy: Quá trình mười năm kháng chiến và thắng lợi vẻ vang.

Đoạn 5: Phẩn còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời tuyên bố hoà bình.

Ý nghĩa:Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ điển sớm đi vào sách Giáo khoa từ Phổ thông cơ sở đến Phổ thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường Cao đẳng, Đại học ngành khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam.

Bình luận (0)