Bài 13. Tổng kết lịch sử thế giới từ sau 1945 đến nay

Phạm Cao Hải Uyên
Xem chi tiết
Đỗ Thị Minh Ngọc
21 tháng 10 2022 lúc 20:59

Tham khảo 

- Ngay khi được tin phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân nhiều nước Đông Nam Á đã nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa vũ trang, lật đổ ách thống trị của phát xít, thành lập chính quyền cách mạng, tiêu biểu là các nước In-đô-nê-xi-a, Việt Nam và Lào.
- Ba nước này lần lượt tuyên bố độc lập : In-đô-nê-xi-a - ngày 17 - 8 - 1945, Việt Nam - ngày 2 - 9 - 1945 và Lào - ngày 12 - 10 - 1945.
- Phong trào đấu tranh lan nhanh sang các nước Nam Á và Bắc Phi.
Nhiều nước ở hai khu vực này liên tiếp nổi dậy giành độc lập như Ấn Độ 19-4-6 - 1950), Ai Cập (1952), An-giê-ri (1954 - 1962) v.v...
- Năm 1960, 17 nước ở châu Phi tuyên bố độc lập.
- Ngày 1 - 1 - 1959, cuộc Cách mạng nhân dân ở Cu-ba dưới sự lãnh đạo của Pa-đen Cát-xtơ-rô đã giành thắng lợi. Chế độ độc tài thân Mĩ bị lật đổ.
=> Như vậy, tới giữa những năm 60 của thế kỉ XX, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc - thực dân về cơ bản đã bị sụp đổ. Đến năm 1967, hệ thống thuộc địa chỉ còn 5,2 triệu km2 với 35 triệu dân, tập trung chủ yếu ở miền Nam châu Phi.

Bình luận (0)
Lã Minh Hoàng
Xem chi tiết
Ánh Tuyết Nguyễn Thị
Xem chi tiết
bồ keith emiu dojin ngiu...
Xem chi tiết
Lan Anh
26 tháng 12 2021 lúc 18:44

 Chính sách cai trị của thực dân Pháp

Từ cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp của nhân dân Nam Định đã dần tạm lắng xuống. Thực dân Pháp đã về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định và bắt đầu thực hiện các chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của chúng.

Ngay sau khi bình định xong Nam Định, thực dân Pháp đã nhanh chóng tiến hành việc phân chia lại địa giới hành chính, bởi Nam Định là một tỉnh lớn, nếu giữ nguyên địa giới cũ sẽ không có lợi cho việc cai trị.

Đến đầu thế kỷ XX ở Nam Định có một thành phố và chín huyện. Đó là thành phố Nam Định và các huyện: Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trường, Giao Thủy, Nghĩa Hưng và Hải Hậu.

Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cấu trúc kinh tế - xã hội và bộ mặt của Nam Định đã có những biến đổi sâu sắc và toàn diện. Chỉ trong vòng hơn chục năm, bộ mặt thành phố đã hoàn toàn đổi khác. Tòa thành cũ đã bị người Pháp phá dỡ từng phần. Thay vào đó là những công sở, dinh thự mới mọc lên. Những đường phố mới được rải nhựa, đèn điện thắp sáng đêm đêm. Kho tàng, bến bãi, nhà ga xe lửa được xây dựng, tạo cơ sở cho việc xuất hiện Nhà máy dệt, Nhà máy tơ, Nhà máy chai...

Dân cư thành Nam cũng tăng nhanh với một kết cấu mới, đủ mặt mọi thành phần của cư dân đô thị cận đại: công nhân, tư sản, tiểu tư sản, học sinh, trí thức tự do, quan chức thực dân và bản xứ cùng một số không nhỏ nông dân ven thị. Nam Định dần trở thành một trong ba đô thị lớn nhất Bắc Kỳ thời Pháp thuộc.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ngành công nghiệp ở Nam Định đã hình thành và phát triển khá nhanh chóng. Cùng với Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất Đông Dương. Tuy nhiên, ngành công nghiệp ở Nam Định thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Giá trị sản lượng công nghiệp cao, nhưng thành quả lao động ấy chủ yếu rơi vào tay giới chủ, còn công nhân lao động chẳng được hưởng là bao. Công nghiệp ở Nam định chủ yếu là công nghiệp nhẹ, nhằm khai thác những nguồn lợi kinh tế của địa phương.

Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống mạng lưới chợ từ thành phố đến nông thôn, đặc biệt là chợ Rồng được xếp vị trí thứ hai ở Bắc Kỳ sau chợ Đồng Xuân (Hà Nội) về cả quy mô lẫn hoạt động kinh doanh đã chứng tỏ sự phát triển nhanh và mạnh của ngành thương nghiệp Nam Định. Thương nghiệp đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng ở Nam Định thời Pháp thuộc.

Hoạt động thủ công nghiệp ở Nam Định nổi tiếng là đẹp và tinh xảo, tuy nhiên, các hoạt động còn gắn chặt với nông nghiệp, phụ thuộc vào nông nghiệp. Chỉ trừ một số phố nghề ở thành phố có tính chuyên nghiệp cao, còn ở nông thôn số các làng chuyên, thợ chuyên không nhiều. Đây chính là hạn chế của thủ công nghiệp ở Nam Định.

Về nông nghiệp, bên cạnh cây lúa là cây trồng chính chiếm nhiều diện tích trồng trọt nhất và cũng là cây trồng chủ đạo để nuôi sống hàng chục vạn người dân, thì bông trở thành loại cây trồng đứng ở vị trí thứ hai.

Trong quá trình khai thác và bóc lột các nguồn lợi kinh tế ở Nam Định, bên cạnh việc du nhập về Nam Định một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức sản xuất phong kiến, lỗi thời, lạc hậu.

Dưới tác động của quá trình nói trên, xã hội Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng đã có những biến chuyển sâu sắc với sự hình thành và phát triển của nhiều giai cấp khác nhau:

Giai cấp địa chủ: Nếu như cuộc cách mạng tư sản tiến công vào giai cấp địa chủ phong kiến và xoá bỏ nó, thiét lập quyền thống trị của giai cấp tư sản, thì tại Việt Nam, tư bản Pháp vẫn duy trì và dung dưỡng cho giai cấp địa chủ.Do đó giai cấp địa chủ không những không bị mất đi khi chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào mà còn được củng cố, phát triển hơn trước, thậm trí còn trở thành cơ sở xã hội và là chỗ dựa vững chắc của chủ nghĩa tư bản Pháp.

Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có những địa chủ thể hiện tinh thần yêu nước bằng cách hưởng ứng các phong trào đấu tranh chống Pháp, nhưng phần lớn vì lợi ích cá nhân nên ủng hộ trật tự thực dân nửa phong kiến, thậm chí sẵn sàng hợp tác với Pháp chống lại phong trào yêu nước.

Giai cấp nông dân:Nông dân là lực lượng chiếm tuyệt đại đa số cư dân Nam Định, nhưng không phải là thuần nhất. Ít nhất họ cũng phân hoá thành ba tầng lớp khác nhau: Trung nông, bần nông, cố nông. Dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến, nông dân Nam Định đã bị dồn vào bước đường cùng. Đó chính là nguyên nhân sâu xa khiến họ tích cực tham gia vào nhiều phong trào yêu nước, đặc biệt là từ khi họ được giác ngộ và tổ chức lại dưới ngọn cờ tiên phong của giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân: Đội ngũ công nhân Nam Định được hình thành cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Định. Số lượng công nhân ước tính khoảng 1.5 vạn người vào đầu thế kỷ XX. Đội ngũ công nhân sớm được giác ngộ ý thức giai cấp, sớm nhận rõ kẻ thù dân tộc cũng chính là kẻ thù giai cấp

Công nhân Nam Định đã tích cực hăng hái đứng lên đấu tranh, vào nửa sau nhứng năm 20 của thế kỷ XX, Nam Định là một trung tâm của phong trào công nhân Việt Nam, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành một chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam.

Giai cấp tư sản: Cho đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929, tu sản Nam Định không chỉ ít ỏi về số lượng mà còn yếu về thế lực kinh tế và chính trị.Chính vì đặc điểm này đã quy định thái độ chính trị của giai cấp tư sản .Một mặt họ chống đế quốc và phong kiến, tán thành độc lập, dân chủ và tự do. Mặt khác họ lại giữ thái độ dè dặt, lừng chừng, ngả theo cách mạng khi phong trào cách mạng lên cao và cũng sẵn sàng thoả hiệp khi đế quốc khủng bố mạnh. Nhìn chung họ thích cải lương hơn là cách mạng.

Giai cấp tiểu tư sản:Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đội ngũ tiểu tư sản phát triển nhanh chóng theo đà đô thị hoá ở Nam Định. Họ bao gồm các thị dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh,các thị xã thị trấn.Họ hợp thành một tầng lớp rất đông đảo ở Nam Định, chỉ riêng ở thành phố Nam Định có khoảng 38.000 dân. Đời sống của tầng lớp tiểu tư sản ở Nam Định nói chung là rất thấp và bấp bênh, hơn nữa họ phải gánh chịu những khoản thuế má nặng nề.Thực tế, tiểu tư sản, dặc biệt là giới chí thức, học sinh là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng ở Nam Định đầu thế kỷ XX.

Dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm xuất hiện các giai tầng xã hội mới ở Nam Định, đại diện cho phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội mới chỉ là thiểu số, nắm trong tay một tiềm lực kinh tế hết sức hạn hẹp.

Cơ cấu xã hội truyền thống ở Nam Định đã bị biến đổi và xáo trộn mạnh, nhưng chưa bị phá vỡ và thay đổi căn bản. Chính điều này đã làm bộc lộ rõ tính chất nửa thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng

Những biến đổi về kinh tế - xã hội và quá trình giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây ở Nam Định đã dẫn đến những chuyển biến mới trong sinh hoạt văn hóa. Sự chuyển biến đó được biểu hiện rõ nét nhất trong sự hình thành nếp sống đô thị ở thành phố Nam Định. Nhưng mặt khác, quá trình đô thị hóa và việc du nhập lối sống phương Tây vào Thành Nam cũng làm nảy ra nhũng thói hư tật xấu mới như trộm cướp, đĩ điếm, nghiện hút...

Về giáo dục, Từ khi Pháp xâm chiếm Nam Định cho đến cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX, về căn bản thực dân Pháp vẫn giữ nguyên trạng hệ thống giáo dục cũ(Nho học) ở Nam Định. Học sinh đi học phải học thêm chữ Pháp và chữ quốc ngữ, toán và cách trí.Ngoài ra thực dân Pháp còn lập một trường đào tạo thông ngôn viên.

 

Năm 1915 đã diễn ra kỳ thi Hương cuối cùng ở trường thi Nam Định. Đây chính là điểm mốc đánh dấu sự chấm dứt của nền khoa cử nho giáo ở Nam Định. Thay vào đó chính phủ thực dân cho lập ra các trường Pháp - Việt, từng bước chuyển dần nền giáo dục theo mô hình phương Tây.

 

Chuyển biến lớn nhất về giáo dục ở Nam định từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là sự tàn lụi của nền giáo dục Nho học và thay vào đó là nền giáo dục mới –Tây học. Giáo dục ở Nam định mới chỉ dừng lại ở một cấp độ thấp, chủ yếu là tiểu học và chỉ một số rất ít người được đi học, còn lại đại đa số nhân dân là mù chữ.

 

Tuy nhiên, chính nền giáo dục ấy đã sản sinh ra một tầng lớp trí thức Tây học yêu nước, chống đối lại sự cai trị của thực dân Pháp ở Nam Định.Lực lượng học sinh ở Nam Định không nhiều nhưng lại rất năng động, tài hoa, nhạy cảm, giàu lòng yêu nước, là ngòi nổ cho nhiều phong trào đấu tranh cách mạng ở trong những năm đầu thế kỷ XX.

Sau khi chiếm được thành Nam Định năm 1884 thực dân Pháp đã bắt đầu tính đến việc xây dựng một thành phố ở đây. Các công sở của người Pháp lần lượt mọc lên trên các phố phường như: Toà công sứ, Toà án Tây, Sở kho bạc ...., bên cạch đó là các nhà máy, xí nghiệp như: Nhà máy chai, nhà máy rượu, nhà máy sợi......Hệ thống chợ phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa rất phát triển trong đó có 4 chợ lớn: Chợ Rồng, chợ Vị Hoàng, chợ Của Trường...

Trước sự lớn mạnh và phát triển của thành phố, ngày 17-10-1921, Toàn quyền Đông Dương đã ra quyết định công nhận Nam Định được hưởng quy chế của một thành phố cấp II.

Thành phố Nam Định, không chỉ là một thành phố công thương nghiệp nổi tiếng đầu thế kỷ XX, mà còn trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa - tư tưởng lớn, một điểm tiếp xúc của luồng giao lưu văn hóa Đông - Tây. Các cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can đều đã tìm đến Nam Định, tuyên truyền và vận động sự ủng hộ của nhân dân Nam Định tham gia phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục.

Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên cũng phát triển cơ sở bắt đầu từ thành phố này. Chính thành phố Nam Định đã tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất - xã hội cần thiết cho phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân Nam Định đầu thế k ỷ XX. Hầu hết các cuộc đấu tranh lớn nhỏ của các giai tầng xã hội ở Nam Định đều nổ ra chủ yếu ở thành phố Nam Định

2. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CÁCH MẠNG Ở NAM ĐỊNH ĐẦU THẾ KỶ XX

Dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa(1897-1914;1919-1929), xã hội Việt nam đã có những biến chuyển hết sức căn bản. Đầu thế kỉ XX, các trào lưu tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây, sau đó là tư tưởng cách mạng vô sản từ nước Nga Xô Viết đã được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam.

Đó chính là những tiền đề quan trọng nhất cho bước phát triển nhảy vọt về chất của phog trào yêu nước việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhân dân Nam Định đã hăng hái hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi của các giai tầng xã hội trong nước, tiêu biểu là các phong trào:

- Phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục.

- Phong trào tẩy chay tư bản nước ngoài.

- Phong trào đòi tự do dân chủ những năm 1925-1926.

 Và đặc biệt nổi bật là phong trào đấu tranh của công nhân: Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến chuyển mới trong hai cuộc khai thác thuộc địa, nhưng đời sống của nhân dân lao động vẫn hết sức cực khổ, đặc biệt là giai cấp công nhân. Các điều kiện sinh hoạt vật chất như: ăn ở, mặc, điều kiện lao động..... đều rất thấp kém. Công nhân không được hưởng bất cứ một chế độ bảo hiểm thân thể nào, thời gian làm việc thường bị kéo dài thành 10 đến 14 giờ một ngày, tiền lương thấp, mức lương không đủ duy trì một mức sống tối thiểu.

 

Ngoài đồng lương rẻ mạt, điều kiện lao động cực khổ, công nhân còn bị đày đọa về thể xác và tinh thần. Họ bị ngược đãi, đánh đập, sa thải, cúp lương và đối xử như nô lệ, chính cảnh sống cùng cực này đã thúc đảy công nhân hăng hái đấu tranh. Tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa cộng sản được tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (một tổ chức do Nguyễn Ái Quốc thành lập năm 1925) truyền bá, công nhân Nam Định đã vùng dậy đấu tranh.

 

Hoà chung với khí thế đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, công nhân Nam Định ngay từ thời kỳ đầu cũng đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của bọn thực dân Pháp. Nam định trở thành một điểm sáng trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân cả nước, với nhiều cuộc đấu tranh tiêu biểu.

Ngay từ tháng 5-1909, ở Nam Định đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của nữ công nhân Nhà máy chai. Từ ngày 27-2 đến 7-3-1924, hơn 100 công nhân ở Nhà máy tơ bãi công. Ngày 11-9-1924, toàn thể công nhân Nhà máy rượu Nam Định tiếp bước cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy rượu Hải Dương, Hà Nội chống lại sự đối xử thô bạo của chủ. Ngày 24-9-1924, 250 công nhân xưởng dệt đóng máy đồng loạt bãi công. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh ngày 30-4-1925 của 2.500 công nhân Nhà máy sợi Nam Định. Cuộc bãi công này đã thực sự gây một tiếng vang lớn. Ngày 30-8-1926, toàn thể công nhân xưởng sợi đã bãi công để phản đối các hành động đánh đập và đòi bồi thường cho chị Nguyễn Thị Vá bị đốc công đánh trọng thương.

Năm 1927, các chi hội của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập ở Nam Định. Đến năm 1928, Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lâm thời thành lập. Các hội viên của hội đã nhanh chóng tham gia các hoạt động đấu tranh của công nhân Nam Định. Mở đầu là cuộc đấu tranh của 24 nữ công nhân thuộc xưởng dệt Nhà máy sợi.

Tiêu biểu nhất phải kể đến cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định vào tháng 3-1929. Nguyên nhân dẫn đến cuộc bãi công này bắt đầu từ việc chủ nhà máy tăng thêm số máy, sa thải 1/3 số công nhân nhưng không giảm việc, toàn bộ khối lượng công việc đó trút lên đầu số công nhân còn lại. Vùa phải làm việc cật lực mà không được tăng thêm đồng lương nào, làn sóng bất bình đã bùng lên trong công nhân.

Cho đến sáng ngày 20-3-1929, toàn bộ công nhân xưởng A bãi công, tiếp đó công nhân xưởng B bãi công để hưởng ứng. Sau 10 ngày tranh đấu không khoan nhượng, ngày 29-3, bọn chủ nhà máy đã phải chấp nhận các yêu sách của công nhân.

Trong cuộc đấu tranh này, công nhân nhà máy Sợi đã biết đoàn kết từng bộ phận, từng kíp để tạo thành một lực lượng thống nhất, biết sử dụng các khẩu hiệu trong đấu tranh, liên tục đưa đơn một cách dồn dập để gây áp lực, buộc bọ chủ phải nhượng bộ. Nét mới trong cuộc đấu tranh này là lần đầu tiên công nhân đã tự bầu ra một bộ phận lãnh đạo để động viên và tổ chức công nhân đấu tranh.

Nhìn chung, các cuộc đấu tranh, mà điển hình là là cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi, đã đánh dấu sự trưởng thành rõ rệt của đội ngũ công nhân Nam Định về trình độ tổ chức, phương pháp đấu tranh và trình độ giác ngộ giai cấp. Sự trưởng thành vượt bậc trong đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và đội ngũ công nhân Nam Định nói riêng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản để thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân lên một tầm cao mới

Bình luận (0)
Nguyễn Diệu Châu
Xem chi tiết
Duy đg học
17 tháng 12 2021 lúc 21:51

 

- Khoa học cơ bản: Thu được những thành tựu hết sức to lớn ở các ngành Toán học, Vật lí, Tin học, Hoá học, Sinh học.

- Công cụ sản xuất: Máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động, rôbốt.

- Năng lượng mới: Năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió,...

- Vật liệu sản xuất mới: Polime (chất dẻo)

- “Cách mạng xanh”: Tìm ra được phương hướng khắc phục nạn thiếu lương thực và thực phẩm.

- Giao thông vận tải và thông tin liên lạc: Máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao, tàu biển trọng tải triệu tấn, hệ thống vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình hiện đại.

- Chinh phục vũ trụ: Tàu vũ trụ, tàu con thoi, con người đặt chân lên Mặt Trăng.

 


 

Bình luận (0)
demonzero
21 tháng 12 2021 lúc 20:50

- Khoa học cơ bản: Thu được những thành tựu hết sức to lớn ở các ngành Toán học, Vật lí, Tin học, Hoá học, Sinh học.

- Công cụ sản xuất: Máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động, rôbốt.

- Năng lượng mới: Năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió,...

- Vật liệu sản xuất mới: Polime (chất dẻo)

- “Cách mạng xanh”: Tìm ra được phương hướng khắc phục nạn thiếu lương thực và thực phẩm.

- Giao thông vận tải và thông tin liên lạc: Máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao, tàu biển trọng tải triệu tấn, hệ thống vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình hiện đại.

- Chinh phục vũ trụ: Tàu vũ trụ, tàu con thoi, con người đặt chân lên Mặt Trăng.

Bình luận (0)
Đào Tùng Dương
9 tháng 12 2021 lúc 21:52

Câu 2 : 

Chiến tranh lạnh (cold war) là một trạng thái xung đột giữa những quốc gia mà không liên quan trực tiếp hành động quân sự nhưng được theo đuổi chủ yếu thông qua các hành động ảnh hưởng tới kinh tế và hoạt động chính trị, tuyên truyền, những hoạt động gián điệp hoặc chiến tranh ủy nhiệm được tiến hành bởi những nước thay thế, ví dụ như Chiến tranh Việt Nam. Thuật ngữ này thường được sử dụng nhiều nhất nói tới Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô giai đoạn 1947–1991. Những nước thay thế là những quốc gia điển hình là vệ tinh của những quốc gia xung đột, ... những quốc gia đồng minh với họ hoặc dưới một sự ảnh hưởng chính trị. Những đối thủ trong một cuộc chiến tranh lạnh sẽ thường cung cấp kinh tế hoặc viện trợ quân sư, như vũ khí, ủng hộ chiến thuật hoặc cố vấn quân sự, để những quốc gia liên quan ít hơn trong những xung đột với quốc gia đối thủ.

Những xu thế phát triển của thế giới ngày nay bao gồm:

- Xu thế hòa hoãn, hòa dịu trong quan hệ quốc tế.

- Xác lập một trật tự thế giới mới, đa cực, nhiều trung tâm.

- Các nước đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm.

- Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, ở nhiều khu vực lại xảy ra những vụ xung đột quân sự hoặc nội chiến giữa các phe phái.

⟹ Xu thế chung của thế giới ngày nay là hòa bình ổn định và hợp tác phát triển kinh tế.

Bình luận (0)
PT_Kary❀༉
9 tháng 12 2021 lúc 22:42

Câu 1:

-Thừa hưởng và phát triển các thành tựu khoa học của thế giới.

-Nhờ viện trợ và những đơn đặt hàng của Mỹ trong chiến tranh ở Triều, Tiên Việt Nam,...

-Truyền thống văn hóa giáo dục lâu đời của người Nhật-sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc.

-Hệ thống tổ chức quản lý có hiệu quả cao của các xí nghiệp, công ty Nhật Bản.

-Vai trò quan trọng của nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng.

-Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo, có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỷ luật và coi trọng tiết kiệm.

Bình luận (0)
Phúc Nguyễn
Xem chi tiết
Trường Nguyễn
Xem chi tiết
nảo
Xem chi tiết