Bài 12: Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em.

Nguyễn Hưng
Xem chi tiết
fghfghf
27 tháng 4 2017 lúc 20:01

TỤC NGỮ:
- Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi.
- Học ăn học nói, học gói học mở.
- Học hay cày biết.
- Học một biết mười.
- Học thầy chẳng tầy học bạn.
- Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu.
- Ăn vóc học hay.
- Bảy mươi còn học bảy mươi mốt.
- Có cày có thóc, có học có chữ.
- Có học, có khôn.
- Dao có mài mới sắc, người có học mới nên.
- Dẫu rằng thông hoạt, chẳng học cũng hư đời, tài chí bằng trời, chẳng học cũng là phải khổ.
- Dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng.
- Dốt đến đâu học lâu cũng biết.
- Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
- Hay học thì sang, hay làm thì có.
- Học để làm người.
- Học hành vất vả kết quả ngọt bùi.
- Học khôn đến chết, học nết đến già.
CA DAO:
- Học là học biết giữ giàng
Biết điều nhân nghĩa biết đàng hiếu trung.
- Làm người mà được khôn ngoan
Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay
Nghề gì đã có trong tay
Mai sau rồi cũng có ngày ích to.
- Học là học để làm người
Biết điều hơn thiệt biết lời thị phi.
- Học trò học hiếu học trung
Học cho đến mực anh hùng mới thôi.
- Học là học để mà hành
Vừa hành vừa học mới thành người khôn.
- Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi.

Bình luận (0)
Nguyễn Lê Thảo Nguyên
4 tháng 5 2017 lúc 10:05
- Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi.
- Học ăn học nói, học gói học mở.
- Học hay cày biết.
- Học một biết mười.
- Học thầy chẳng tầy học bạn.
- Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu.
- Ăn vóc học hay.
- Bảy mươi còn học bảy mươi mốt.
- Có cày có thóc, có học có chữ.
- Có học, có khôn.
- Dao có mài mới sắc, người có học mới nên.
- Dẫu rằng thông hoạt, chẳng học cũng hư đời, tài chí bằng trời, chẳng học cũng là phải khổ.
- Dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng.
- Dốt đến đâu học lâu cũng biết.
- Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
- Hay học thì sang, hay làm thì có.
- Học để làm người.
- Học hành vất vả kết quả ngọt bùi.
- Học khôn đến chết, học nết đến già.
CA DAO:
- Học là học biết giữ giàng
Biết điều nhân nghĩa biết đàng hiếu trung.
- Làm người mà được khôn ngoan
Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay
Nghề gì đã có trong tay
Mai sau rồi cũng có ngày ích to.
- Học là học để làm người
Biết điều hơn thiệt biết lời thị phi.
- Học trò học hiếu học trung
Học cho đến mực anh hùng mới thôi.
- Học là học để mà hành
Vừa hành vừa học mới thành người khôn.
- Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi.
DANH NGÔN:
- Không những phải học ở sách, mà còn phải học ở cuộc sống nữa.
( N. CRÚP-XCAI-A )
- Học, học nữa, học mãi.
( V.I.LÊ-NIN )
- Bất kì người nào tôi gặp cũng có chỗ hơn tôi, đáng cho tôi học.
( PA-SCAN )
- Chúng ta phải tiếp thu và học tập ở những người đi trước chúng ta và cả những người đồng thời với chúng ta. Ngay cả thiên tài cực kì vĩ đại cũng không thể tiến xa được nếu chỉ muốn lấy mọi thứ từ thế giới nội tâm của riêng mình.
( G. GỚT )
- Con người phải suốt đời trau dồi cho mình có kiến thức ngày càng rộng thêm.
( A. LU-NA-SÁC-XKI )
- Người học trò mà không định vượt thầy thì thật đáng thương.
( LÊ-Ô-NA )
- Người hỏi về điều mình chưa biết là nhà bác học; người xấu hổ không dám hỏi là kẻ thù của chính mình.
( A. NA-VÔI ) -Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Lo cho chồng học hành
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa mai Chúa mở khoa thi,
Bảng vàng choi chói kìa đề tên anh.
Bõ công cha mẹ sắm sanh,
Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.
--Làm trai cố chí học hành
Lập nên công nghiệp để dành mai sau
-Triều đình còn chuộng thi thư
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang-
-Rừng thư biển thánh khôn dò
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra
Sẵn sàng áo mẹ cơm cha
Có văn, có sách mới ra con người.

"Ai làm chủ giáo dục có thể thay đổi thế giới ." Leibniz
"Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục ." Karl Marx
"Bé chẳng học, lớn làm gì? ." Ngạn ngữ Trung Quốc
"Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người ." Ngạn ngữ Nga
"Các bài giảng của giáo sư, cho dù có đầy đủ, xúc tích đến đâu, có chứa chan tình yêu tri thức của bản thân giáo viên đến đâu, thì về thực chất, mà nói, đó chẳng qua cũng vẫn chỉ là chương trình, là những lời chỉ dẫn tuần tự để điều chỉnh trật tự nhận thức của sinh viên. Người nào chỉ biết ngồi nghe giáo sư giảng chứ bản thân mình trong lòng không cảm thấy khát khao đọc sách, thì có thể nói tất cả những điều người ấy nghe giảng ở trường đại học cũng sẽ chỉ như một tòa nhà xây trên cát mà thôi ." I.A. Gontcharov
"Cần phải lựa chọn một cách nghiêm ngặt xem nên học gì và không nên học gì ." Lev. Tolstoy
"Đi một ngày đàng học một sàng khôn ." Tục ngữ Việt Nam
"Đọc sách không bằng suy ngẫm, Học trường không hơn được trường đời”. ." Immanuel Kant
"Đời sống có hạn mà sự học thì vô hạn ." Trang Tử
"Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học ." Khuyết Danh
"Giáo dục là làm cho con người tìm thấy chính mình ." Socrates
"Giáo dục là một điều đáng kính trọng, nhưng nên nhớ rằng đôi khi những điều được dạy là những cái không đáng biết ." Oscar Wilde
"Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên ." Hồ Chí Minh
"Học không biết chán, dạy người không biết mỏi ." Khổng Tử
"Học kiến thức phải giỏi suy nghĩ, suy nghĩ, lại suy nghĩ. Chính nhờ cách ấy tôi đã trở thành nhà khoa học ." A. Einstein
"Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc ." Ngạn ngữ Gruzia
"Học thầy, học bạn, vô vạn phong lưu ." Tục ngữ dân tộc Thái–Việt Nam
"Học, học nữa, học mãi ." V.I. Lenin
"Hỏi một câu chỉ dốt chốc lát. Nhưng không hỏi sẽ dốt nát cả đời ." Ngạn ngữ phương Tây
"Không bỏ ra một công phu nhất định thì không có khả năng khám phá sự thật và ai sợ mất công sức thì không có khả năng lĩnh hội được chân lý ." Khuyết Danh
"Không nên dạy cho trẻ em những gì chúng phải suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách suy nghĩ ." Margaret Mead
"Kiến thức chỉ có được qua tư duy của con người ." A. Einstein
"Một đứa trẻ được dạy bảo tốt sẽ trở thành người tốt ." Victor Hugo
"Một ngày ngồi trách móc sao bằng một giờ làm việc. Một giờ này làm lòng ta nhẹ và túi ta nặng." Benjamin Franklin
"Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện ." Vijaya Lakshmi Pandit
"Muốn xây dựng đất nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước, phải trọng dụng người tài ." Chiếu Lập Học
"Nếu ở Hoa Kỳ chỉ có một lời để lưu truyền từ thế hệ phụ huynh đến thế hệ con em của họ thì đó chỉ là một câu gồm hai chữ Tự tân. Và nếu ở mỗi thành phố có một ngôi đền dành cho sự tự tân, thì đó là ngôi trường học của nơi đó ." Ellen Goodman
"Ngủ dậy muộn thi phí mất cả ngày, ở tuổi thanh niên mà không học tập thì phí mất cả cuộc đời ." Ngạn ngữ Trung Quốc
"Nhà trường phải luôn luôn có chủ trương tạo cho học trò một cá tính cân đối chớ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn ." A. Einstein
"Nhiệm vụ của một trường đại học tiến bộ không phải là cung cấp những câu trả lời thích hợp, mà chính phải là đặt ra các câu hỏi thích hợp ." Cynthia Ozick
"Sự ngu dốt, hơn hẳn cả sự ở không, mới là mẹ của tất cả các thói xấu. Ðịnh mệnh của các thế hệ tương lai nằm ở trong nền giáo dục khôn ngoan, một nền giáo dục cần phải phổ cập để có thể có ích lợi ." L.E. Landon, Ethel Churchill
"Thà phải tìm hiểu sự thật suốt đêm còn hơn phải nghi ngờ nó suốt đời." F. Engels
"Thầy giáo của anh có thể dắt anh đến cửa; đạt được sự học là việc tùy thuộc vào mỗi người ."
Bình luận (0)
Cát Tường
Xem chi tiết
happy time
Xem chi tiết
Chi Nguyễn Khánh
21 tháng 7 2017 lúc 20:33

* Quyền đc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em:

- Quyền đc bảo vệ:

+ Khai sinh quốc tịch.

+ Bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm.

- Quyền đc chăm sóc:

+ Chăm sóc sức khỏe.

+ Nuôi dưỡng và hưởng sự chăm sóc của các thành viên trong gia đình.

- Quyền đc giáo dục:

+ Đc học tập, dạy dỗ.

+ Vui chơi, giải trí, tham gia hoạt động văn hóa, thể thao.

* Bổn phận:

- Nghe lời ông bà, bố mẹ, anh chị, ...

- Yêu Tổ Quốc, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Bình luận (0)
Mai Bạch Dương
Xem chi tiết
Stella
10 tháng 2 2017 lúc 22:12

Bố mẹ đã đáp ứng đầy đủ cho em mọi điều kiện. Nhưng riêng nhóm quyền tham gia thì chưa đủ vì thỉnh thoảng họ cũng không nghe em nói.hiu

Bình luận (0)
Nguyễn Đỗ Quang Anh
27 tháng 6 2017 lúc 9:50

tick rồi!tick đi

Bình luận (0)
MonKey D. Luffy
27 tháng 7 2017 lúc 8:52

tick rùi bạn tick lại đi!

Bình luận (0)
Monkey D. Luffy
22 tháng 4 2017 lúc 19:30

ai tick ko

Bình luận (2)
Nguyễn Tiến Đạt
19 tháng 4 2017 lúc 20:14

Những biện pháp để thực hiện quyền trẻ em là:

-Tôn trọng và bảo vệ quyền mình và của người khác.

-Hiểu được sự quan tâm của người khác đối với mình.

-Không ăn chơi mà bỏ bê việc học

Bình luận (1)
Nguyễn Khánh Linh
19 tháng 4 2017 lúc 19:50

mình cần gấp!

Bình luận (0)
Trốn Để Chạy
Xem chi tiết
Nguyễn Lưu Vũ Quang
11 tháng 4 2017 lúc 13:12

1. Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền con người

1.1. Quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời đại khác nhau[1]. Theo Từ điển tiếng Việt 1992 [2] thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Như vậy, quyền con người là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi con người được hưởng. Quyền con người được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợí ích xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong đónhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng. Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam ở nước ta hiện nay.

1.2. Nhằm bảo đảm quyền con người, Hiến pháp 1992 của nước ta đã ghi nhận hai nguyên tắc quan trọng: (i) các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội phải được tôn trọng[3]; (ii) Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân[4]. Từ hai nguyên tắc này và để đảm bảo thực hiện trên thực tế, Hiến pháp 1992 đã quy định cơ chế thực hiện như sau:

- Quyền con người, quyền công dân được hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân cả nước bầu ra, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bằng các phương thức sau: xây dựng Hiến pháp và pháp luật, ghi nhận ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể chế hoá các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể, nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hội đồng nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước địa phương.

- Quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp là chủ thể có trách nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân trở thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó cơ quan công an (cơ quan điều tra) có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế

- Quyền con người, quyền công dân còn được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư pháp. Toà án và Viện kiểm sát là các cơ quan bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm... của con người.

2. Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam

2.1. Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin... của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực thi công vụ.

Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 71 và Điều 72 cũng là cơ sở để xây dựng Luật Tố tụng Hình sự trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn.

2.2. Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Một số trường hợp, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và trong trường hợp khẩn cấp) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.

Những năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc bắt người tuỳ tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có trường hợp cơ quan cấp dưới giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy tiện, xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của con người. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Tuyết và cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới nghi ngờ cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét [5].

Một trường hợp khác xảy ra ngày 18/2/2006 tại quán bia trên đường Mạc Đĩnh Chi, Quận 1, TP.HCM. Đông đảo thực khách tại đây đã rất bất bình trước hình ảnh gây phản cảm: Khoảng ba bốn người (báo chí phản ánh là công an) dẫn giải một người bị còng tay từ trên xe (biển số xanh) bước xuống và vào quán. Mọi người ngồi vào bàn ăn, người thanh niên ngồi bên cạnh, tay phải bị còng chặt vào chân ghế gỗ [6]... Đây là trường hợp do không tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người bị dẫn giải, không giữ đúng lề lối, tác phong công an nhân dân nên một số cán bộ, chiến sĩ khi bắt, dẫn giải người vi phạm pháp luật đã xâm hại đến danh dự nhân phẩm của con người, coi thường dư luận xã hội.

Một vụ việc thể hiện bắt người tùy tiện, không đúng trình tự thủ tục luật định đã xảy ra tại xã Thanh Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Diễn tiến của vụ việc có thể tóm tắt như sau: Bà Vuốt có hai con là anh Quý và anh Sửu. Chị Toan là vợ anh Quý bị Nguyễn Tùng Lâm trêu ghẹo và chặn đánh. Ông Chứ (chồng bà Vuốt) cũng bị Lâm hành hung. Khoảng 21h30 Lâm kéo vài chục người đến vây nhà, ném gạch đá, dùng kiếm đâm thủng cửa nhà ông Chứ. Ông Chứ ném gạch xuống không cho Lâm và đồng bọn đến gần, sau đó nhóm của Lâm bỏ chạy. Hôm sau, mẹ và chú của Lâm đến nhà ông Chứ bắt đền vì làm gẫy răng của Lâm (và phải đền mỗi cái đến hai triệu đồng). Vụ việc được đưa đến cơ quan pháp luật. Sáng ngày 25/10/2005 anh Quý đến trụ sở công an huyện Yên Mỹ theo giấy triệu tập và bị bắt giam tại trại tạm giam công an tỉnh Hưng Yên, mãi tới 22 giờ cùng ngày công an huyện mới thông báo cho gia đình bà Vuốt. Trước đó ngày 20/6/2005 anh Sửu (em trai anh Quý) đang lao động tại trại nuôi lợn của nhà thì bị ba cán bộ công an huyện mặc thường phục đến chở thẳng lên công an huyện Yên Mỹ bắt giam[7]. Trường hợp này các cán bộ công an đã vi phạm các quy định của Luật Tố tụng Hình sự về việc bắt, giam giữ người. Cán bộ thực hiện bắt người không có lệnh bắt, khi bắt không tôn trọng trình tự thủ tục bắt, bắt người không có sự chứng kiến của chính quyền, không lập biên bản khi bắt. Những việc làm này làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Bắt người, tạm giữ, tạm giam oan sai tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến nhưng đã xảy ra ở nhiều địa phương, gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây ra hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, trường hợp oan sai của thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng ở huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Một lần đi dự tiệc cưới về thầy “chếnh choáng” và bị té ngã bầm tay. Cũng đêm đó xảy ra vụ đánh nhau tại nhà vợ chồng anh Hùng, chị Đôi. Nghe tiếng lộn xộn bà Hum và con trai là anh Đức chạy sang. Một bóng đen dùng gậy phang anh Đức và bà Hum ngất xỉu. Bóng đen cùng đồng bọn bỏ chạy. Anh Hùng bị thương tật 4%, chị Đôi 10%, Bà Hum 10%, anh Đức 8%. Một tuần sau thầy giáo Hoàng được mời lên xã. “Tới nơi thấy có đủ cả công an tỉnh, công an huyện, công an xã chờ sẵn, chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì thầy nghe tiếng hô: Tên giết người, cướp của hạ vũ khí đầu hàng! Thầy choáng váng, đang nghĩ xem vũ khí của minh là gì thì họ thoăn thoắt cởi hết đồ của thầy... rồi thầy bị đưa lên xe chở thẳng về nơi giam giữ... suốt sáu tháng trong phòng giam thầy mớimáng máng hiểu mình bị bắt vì có các yếu tố gần giống với những điều mà các nạn nhân kể lại một cách lộn xộn thiếu thống nhất”[8]... Tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; như vậy, cơ quan công an thực hiện lệnh bắt nhưng không nói lý do bắt cho thầy Hoàng, việc công an gọi thầy là “tên giết người cướp của”, cởi hết đồ của thầy là vi phạm pháp luật, xúc phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của thầy Hoàng.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bắt người tùy tiện, bắt oan sai, không đúng trình tự thủ tục là do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, ý thức pháp luật chưa được đề cao. Chẳng hạn, vụ án Dương Thị Nga bị xét xử về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân” ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo cơ quan chức năng “căn cứ vào toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án... thấy rằng việc điều tra, thu thập chứng cứ và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hoàn Kiếm đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự và áp dụng chưa đúng quy định của pháp luật về xử lý vụ án. Đồng thời các chứng cứ thu thập chưa đủ căn cứ kết luận Dương Thị Nga là người đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 200.000 đồng”.[9]

Như vậy, do nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bắt người, tạm giam, tạm giữ cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án làm cho việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt động tuỳ tiện, trái pháp luật xâm hại đến quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân. Để bảo đảm được quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị và đạo đức công vụ cho những cán bộ này; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức độ cho phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.

Mặt khác, để nâng cao hiệu quả công tác và bảo đảm được quyền con người, chủ thể tiến hành tố tụng phải nhận thức được rõ ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Phải hiểu rằng: áp dụng các biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam là nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nhưng cần chú ý bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Bởi vì người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn chưa phải là tội phạm, họ mới chỉ tạm bị hạn chế một số quyền như quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú. Những quyền khác của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn vẫn phải được bảo đảm và được tôn trọng. Chẳng hạn, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm[10].

Việc áp dụng tùy tiện các biện pháp ngăn chặn như việc bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn... đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Người thực hiện một trong các hành vi nói trên phải bị xử lí nghiêm khắc, thậm chí có thể bị truy tố theo pháp luật để bảo đảm sự nghiêm minh, công bằng xã hội, bảo đảm quyền con người của người bị bắt oan, sai, bị tạm giữ, tạm giam quá hạn. Những hành vi bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn không chỉ xâm hại hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người, của công dân mà còn làm suy giảm uy tín của Nhà nước ta, nhà nước của dân, do dân và vì dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn sẽ nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp phần quan trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người.

Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc bắt, giam giữ cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ một lý do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối với người phạm tội mà là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

2.3. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội phạm. Mục đích là để ngăn chặn hành vi phạm tội và việc lẩn trốn pháp luật của bị can, bị cáo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Như vậy, đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa ra xét xử không thể bị bắt để tạm giam. Nếu người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa ra xét xử mà vẫn bị bắt để tạm giam thì có nghĩa các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện không đúng quy định pháp luật, quyền con người, quyền công dân của người bị bắt không được đảm bảo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp duy nhất để ngăn chặn, vì vậy không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam. Khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và thái độ của họ khi và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ được bắt người để tạm giam khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội và nếu xét thấy cần phải bắt để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử lý tội phạm. Khi có những điều kiện, dấu hiệu cho thấy người phạm tội không có ý trốn tránh pháp luật, không gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì không nên bắt (thậm chí không được bắt) mà có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Chẳng hạn, người phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt để tạm giam.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân vì vậy chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh bắt. Lệnh bắt nếu thiếu sự phê chuẩn của Viện kiểm sát sẽ bị coi là không có giá trị và công dân có quyền không chấp hành. Luật quy định sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm cho việc bắt người đúng pháp luật và chỉ bắt những người thực sự cần phải bắt để ngăn chặn tội phạm hoặc để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, và thi hành án hình sự. Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, khi thực hiện bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo: Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ, tên; chức vụ của người ra lệnh; họ, tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt phải thật rõ ràng, có cơ sở pháp lý. Lệnh bắt do người có thẩm quyền ký và đóng dấu (không phải cứ cơ quan công an là có quyền ra lệnh bắt, chỉ cơ quan hoặc người có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh) nhằm tránh sự tùy tiện, giả mạo... khi thực hiện lệnh bắt người thi hành phải tôn trọng triệt để các quy định của pháp luật. Phải đọc to lệnh bắt, giải thích cho người bị bắt rõ lý do bắt, các quyền và nghĩa vụ của họ và phải lập biên bản. Biên bản phải có chữ ký của người có thẩm quyền và người chứng kiến cùng ký vào biên bản khi thi hành lệnh bắt. Khi bắt người phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền cơ sở nơi tiến hành bắt, phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt. Cần chú ý: Người bị bắt trong trường hợp nêu trên chỉ là bắt để tạm giam. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không có nghĩa là giam luôn người bị bắt. Quyết định bắt người không thể đánh đồng hay thay thế cho quyết định tạm giam.

3. Từ những phân tích trên, để bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, hoàn thiện một số quy định của Luật Tố tụng Hình sự, Luật cần quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội trnh oan sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng của người bị bắt. Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng cần quy định rõ hơn về các điều:

+ Khoản 2 Điều 58: Người bào chữa có quyền: a) có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác. Theo chúng tôi thì Luật quy định như vậy còn chung chung, chưa rõ ràng. Vậy khi nào thì điều tra viên đồng ý, khi nào thì không? Điều này hoàn toàn phụ thuộc ý chí chủ quan của điều tra viên, do điều tra viên quyết định. Do vậy Luật cần quy định các trường hợp người bào chữa được quyền hỏi bị can, người bị tạm giữ, được quyền tham gia một số hoạt động điều tra cụ thể.

+ Khoản 1 Điều 84 Biên bản về việc bắt người quy định: Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ ngày giờ tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của bộ luật này. Khoản 2quy định: Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm quy định tại khoản 1 Điều 84, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng, sức khỏe của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Với những quy định như vậy luật đã liệt kê tương đối đầy đủ các điều kiện, nội dung, yêu cầu... của biên bản. Tuy vậy đây mới chỉ là điều kiện cần mà còn thiếu điều kiện đủ; Luật mới chỉ đề ra các quy định nhìn từ góc độ bảo đảm các quyền của Nhà nước mà chưa xem xét từ góc độ bảo đảm quyền của người bị bắt. Do vậy biên bản về việc bắt người cần bổ sung thêm “biên bản cần được lập làmhai bản và người bị bắt phải được giao một bản” để nhằm tránh sự thất lạc, mất mát sai soát, tùy tiện của chủ thể tiến hành tố tụng và thể hiện sự tôn trọng người bị bắt.

+ Điều 85 Thông báo về việc bắt quy định: Người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền phường, thị trấn, hoặc cơ quan tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay. Để đảm bảo quy định pháp luật được rõ ràng, thuận tiện cho việc áp dụng và bảo đảm được quyền của người bị bắt, Luật cần quy định rõ hơn trường hợp nào bị coi là cản trở việc điều tra, trường hợp nào không cản trở điều tra để thông báo theo quy định pháp luật về việc bắt người đối với gia đình người bị bắt.

+ Khoản 2 Điều 87 quy định về thời hạn tạm giữ: “trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng khĩng qú ba ngđy; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày”; những quy định này còn chưa cụ thể, dễ làm cho chủ thể tiến hành tố tụng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, tạo ra cho chủ thể áp dụng một phạm vi khá rộng. Vậy những trường hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt” ? Điều này hoàn toàn do chủ thể tiến hành tố tụng nhận định và thực hiện. Do vậy để đảm bảo tính chặt chẽ, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế, luật phải quy định cụ thể từng trường hợp; không nên dùng văn bản dưới luật để quy định hoặc hướng dẫn vì dễ tạo ra sự tùy tiện và áp dụng không thống nhất.

+ Về Tạm giam, khoản 2 Điều 88 quy định: “Đối với bị can bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam”. Để thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn, vì con người của chế độ XHCN, khoản 2 cần bổ sung thêm trường hợp bị can bị cáo là người đang phải nuôi, chăm sóc người thân của mình là người tàn tật nặng, ốm nặng hoặc sắp chết (gia đình neo đơn, nếu thiếu sự chăm sóc của bị can bị cáo thì những người này không thể tự mình sinh sống được) thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (chẳng hạn cấm đi khỏi nơi cư trú), trừ những trường hợp đã nêu tại điểm a) bị can bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; b) bị can bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; c) bị can, bị cáo xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

- Thứ hai, về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật để bảo vệ các giá trị nhân văn của con người. Tiếp nhận sự phản hồi từ các cơ quan thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu, ý kiến đóng góp của nhân dân để sửa đổi, bổ sung cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện đảm bảo tốt các quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác giám sát đối với các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng. HĐND cần thực hiện tốt chức năng giám sát và hoạt động chất vấn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương để đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động có hiệu quả, đúng pháp luật.

- Thứ ba, đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định của pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giữ tạm giam; đảm bảo khi thực hiện bắt người phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam; phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm giữ, tạm giam khi giải quyết vụ án.

- Thứ tư, đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án, gặp trực tiếp hỏi kỹ càng điều tra viên, những người có liên quan đến vụ án, và cả người bị bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt. Trong trường hợp bắt người không có căn cứ thì Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên cần phải luôn đề cao trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong quá trình thực thi công vụ của mình.

Tóm lại, bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự... Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế độ ta. Bộ luật Tố tụng Hình sự của nước ta đã ghi nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua nhiều chế định khác nhau. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân và của cả bị can, bị cáo, của người bị bắt. Tất cả những quy định của Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng Hình sự về bắt, tạm giữ, tạm giam đều nhằm góp phần phát huy dân chủ, tăng cường hơn nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và giàu mạnh.

Bình luận (3)
lê thái triệu vỹ
16 tháng 4 2017 lúc 11:33

để đảm bảo đi đường ta cần làm gìkhocroi

Bình luận (0)
Phúc Lê
Xem chi tiết
Lưu Hạ Vy
12 tháng 4 2017 lúc 18:00

Cái này pn xem trog SGK nhs , nội dung của các nhóm quyền có mà !

Bình luận (0)
Hà Tiến Đạt
Xem chi tiết