đê xl bạn, mình sẽ giúp bạn bài này, bạn đọc tham khảo nha
“Quê hương là gì hả mẹ; Mà cô giáo dạy phải yêu". Trong “Bài học đầu cho con”, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã hình tượng hoá quê hương – Tổ quốc qua lời cô giáo dạy học trò bằng những điều giản dị: là chùm khế ngọt; là cầu tre nhỏ; là hương cau rụng trắng ngoài thềm,… để rồi kết lại cũng bằng điều giản dị: Quê hương nếu ai không nhớ; Sẽ không lớn nổi thành người. Thi phẩm ấy được Giáp Văn Thạch phổ nhạc và cũng đặt tựa đề giản dị mà thiêng liêng vô cùng bằng hai tiếng: “Quê hương”. Thơ và nhạc đã dìu nhau cất cánh và đọng vào tâm khảm của từng trái tim con người Việt Nam từ khi nó ra đời cho đến tận hôm nay và chắc chắn nó trường tồn cùng năm tháng. Đó cũng chính là điều mà nhà bác học L. Pasteur nói: “Học vẩn không có quê hương, nhưng người học phải có Tổ quốc”. Học vấn không có quê hương, có nghĩa là không có biên giới, không giới hạn đối tượng. Kiến thức nhân loại lan toả đến những ai có khát vọng học tập, có khát vọng truyền bá để những diều tốt đẹp đến với mọi người. Trong lịch sử nhân loại, có biết bao luồng tri thức được truyền đi mà đầu tiên phảỉ kể đến là những học thuyết thời cổ đại của Phật học, của Thiên Chúa giáo, của Nho học, Đạo học (Lão – Trang),… đế ngày nay trở thành di sản chung của nhân loại.
Bên cạnh những tri thức thuộc loại bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, ta đã từng chứng kiến những thời kì lan toả của tri thức khoa học thực nghiệm như: hoá học, vật lí, sinh học,…; trừu tượng như toán học,… Khát vọng chiếm lĩnh tri thức làm giàu có cho tâm hồn, trí tuệ mình và dân tộc, Tổ quốc mình đã mở ra những phong trào du học diễn ra khắp thế giới từ xưa đến nay: Trần Huyền Trang thời Đường đã vâng lệnh triều đình sang Ấn Độ (Tây Trúc) thỉnh kinh, nhằm giáo hoá dân tộc Trung Hoa noi theo gương sáng từ bi của Phật; Phong trào Đông Du của Việt Nam từng diễn ra ở cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX do chí sĩ Phan Bội Châu đề xướng với mục đích khai hoá dân tộc khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu và thoát khỏi bóng đêm của chủ nghĩa thực dân Pháp bao trùm xã hội Việt Nam ngày ấy. Thời đại Hồ Chi Minh đã chứng kiến những nhân tài kiệt xuất sau khi trang bị kiến thức vững vàng, đã từ bỏ vinh hoa phú quý ở hải ngoại, sẵn sàng về phục vụ quê hương – Tổ quốc trong công cuộc cùng với Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc. Đó là những nhân cách cao đẹp; những kiến thức khoa học thuộc hàng ưu tú nhất một thời như: Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch; Nguyễn Văn Thủ, Kha Vạn Cân,…
Ngày nay, có biết bao thanh niên du học và trở về phục vụ cho công cuộc hiện đại hoá đất nước. Qua những sự kiện trên đã chứng minh hùng hồn cho một phần câu nói của L.Pasteur: Học vấn không có quê hương.
Tuy học vấn không có quê hương; nhưng “người học phải có Tổ quốc”. Tổ quốc là danh từ trừu tượng nhằm muốn nói đến nơi minh sinh ra, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi cha mẹ, ông bà, Tổ tiên ta sống từ đời này qua đời khác. Người có học không có nghĩa là giới hạn ở những người được đến trường, mà theo cách hiểu rộng “Con đi trường học, mẹ đi trường đời” trong câu hát đâu gian. Tóm lại, đó là những người có kiến thức, có ý thức tôi luyện bản thân và hướng về quê hương – Tổ quốc – dân tộc. Những hình ảnh về Tổ quốc rất giản dị mà thiêng liêng đến lạ: đó có khi là một dòng sông xanh biếc “Nước gương trong soi bóng những hàng tre” mà khi đi xa Tế Hanh đã nhớ đến quặn lòng; là cầu tre nhỏ, là hương cau rụng trắng ngoài thềm trong tâm cảm của Đỗ Trung Quân; là con đường đưa anh đến trường; là núi Bút, non Nghiên gợi đến tinh thần hiếu học của cậu trò trong ý thơ của Nguyên Khoa Điềm; là cánh đồng quê và trời chiều trong tâm tưởng yêu thương muôn đời của mỗi con người Việt Nam,… Như vậy, Tổ quốc là nơi ta gởi những yêu thương nhung nhớ khi ta đi xa; khi nơi ấy tươi sáng, người người ấm no làm ta vui sướng; nơi ấy tiêu điều xơ xác làm ta nhói lòng. Nguyền Đình Thi nhói lòng, thốt lên đau đớn khi hình ảnh quê hương bị tàn phá: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu; Dây thép gai đâm nát trời chiều”. Hoàng Cầm nức nở, cụ thể hoá nỗi đau quê hương tiêu điều ấy bằng hình ảnh: “Nghe xót xa như rụng bàn tay”. Và cao hơn nữa “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ". Khi dân tộc li tán, đau thương, Trưng nữ vương gác nỗi đau riêng làm cho “Ai Bắc quân thù kinh vó ngựa; Giáp vàng khăn trở, lạnh đầu voi” (khăn trở: khăn tang). Nguyễn Trãi gạt nước từ biệt cha chốn quan san về dâng “Bình Ngô sách” và mười năm ròng rã bên Lê Lợi “nằm gai nếm mật” nuôi chí đánh đuổi giặc Minh; Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo đứng trước vận nước ngả nghiêng, đã dẹp bỏ sự tị hiềm của gia đình cùng đứng bên nhau đánh đuổi giặc Nguyên. Trần Bình Trọng với câu nói đanh thép “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc, Nguyễn Đình Chiểu đã đùng ngòi bút kiên định của mình “chở đạo – đâm gian”; Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và biết bao sĩ phu, chí sĩ, chiến sĩ đã dùng sở học của mình suốt đời vì sự hưng thịnh của đất nước và dân tộc.
Chứng kiến dân tộc chìm trong bể máu của chủ nghĩa thực dân; chứng kiến cảnh “nhà tù nhiều hơn trường học” trên đất nước mình, người con xứ nghệ Nguyễn Sinh Cung cũng chính là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã hi sinh cả tuổi thanh xuân của đời mình quyết ra đi tìm kè sách giải phóng dân tộc là một minh chứng tuyệt vời bậc nhất của Việt Nam về tinh thần “người học cần có Tổ quốc”. Sở học, tư tưởng và tấm lòng, nhàn cách Hồ Chí Minh mãi mãi là điểm son tươi sáng trong lịch sử dân tộc Việt Nam về tình yêu dân tộc và Tổ quốc.
Ngày nay, sống trong một thời đại hoà bình và tận hưởng những vinh quang của tri thức nhân loại thời mở cửa, thời của toàn cầu hoá, thời của sự toà sáng về công nghệ thông tin,… mỗi chúng ta có rất nhiều điều kiện học tập, trau dồi tri thức. Khi vững vàng về tri thức, người ta dễ phân biệt được đúng sai và chắc chắn mồi chúng ta đều hiệu giá trị thiêng liêng của Tổ quốc và niềm tự hào dân tộc. Lần giở những trang sử xưa, ta càng thêm tự hào tổ tiên ta nâng niu trân trọng quê hương đất nước như thế nào cũng là cách giúp ta tự nhắc nhở mình sống và làm việc vì quê hương, đất nước. Và không ai có thể phủ nhận “Trong anh và em hôm nay; Đều có một phần Đất Nước* như cách nói của Nguyễn Khoa Điềm.