1. Theo em , nhà nước Văn Lang ra đời để giải quyết những yêu cầu gì của xã hội ? Ý thức cộng đồng của cư dân Văn Lang đã được hình thành như thế nào ?
2. Chính quyền đô hộ đã xác nhập đất đai Âu Lạc vào lãnh thổ nhà Hán nhằm mục đích gì ?
1. Theo em , nhà nước Văn Lang ra đời để giải quyết những yêu cầu gì của xã hội ? Ý thức cộng đồng của cư dân Văn Lang đã được hình thành như thế nào ?
2. Chính quyền đô hộ đã xác nhập đất đai Âu Lạc vào lãnh thổ nhà Hán nhằm mục đích gì ?
Mik chỉ bít câu 2 thui , thông cảm nha
2. Chính quyền đô hộ đã xác nhập đất đai Âu Lạc vào lãnh thổ nhà Hán nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ , thôn tính đất nước ta về cả lãnh thổ và chủ quyền .
Thông cảm cho mik nha , chúc pạn hok tốt ღღღღ Linh Sapphire ღღღღ
Tham khảo nha :
1.
- Nhà nước Văn Lang ra đời để giải quyết những yêu cầu của xã hội :
+ Sự hình thành các bộ lạc lớn
+ Sản xuất phát triển ; cuộc sống định cư ; sự ra đời của các làng , chạ , bộ lạc
+ Cư dân Lạc Việt luôn phải đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ mùa màng
+ Chống giặc ngoại xâm và giải quyết xung đột giữa các bộ lạc
Cần phải giải quyết các cuộc xung đột có thể sống yên ổn hơn . Nhà nước Văn Lang đã ra đời trong hoàng cảnh phúc tạp nói trên
Ý thức cộng đồng của cư dân Văn Lang đã được hình thành :
+ Tổ chức lễ hội vui chơi , đua thuyền , giã gạo
+ Biết thờ cúng các lực lượng tự nhiên , biết chôn người chết theo hiện vật
+ Tục nhuộm răng , ăn trầu , xăm mình
=> Đời sống tinh thần đã tạo nên tình cảm cộng đồng
2.
Chính quyền đô hộ đã xác nhập đất đai Âu Lạc vào lãnh thổ nhà Hán nhằm mục đích :
+ Thôn tính nước ta về cả lãnh thổ và chủ quyền
+ Mở rộng lãnh thổ
Chúc pạn hk tốt !!!!!!!!!!!!!
trình bày các sự kiện sau
năm sự kiện
40
248
542
544
776-791
-Năm 40: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
-Năm 248: Khởi nghĩa Bà Triệu
-Năm 542: Khởi nghĩa Lý Bí
-Năm 544: Nước Vạn Xuân thành lập
-Năm 776-791: Khởi nghĩa Phùng Hưng
năm 40 là cuộc kn của Hai Bà Trưng
năm 248 là cuộc kn của Bà Triệu
năm 542 là cuộc kn của Lí Bí
năm 544 là Lí bí lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân
năm 776-791 là cuộc kn của Phùng Hưng, Phùng Hải
STT | Tên cuộc đấu tranh | Thời gian | Chống lại kẻ thù | Nơi bùng nổ | Nơi giành thắng lợi |
Help me!!! Mk cần gấp!!!
1. Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X
Năm 40, cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ đầu tiên của nhân dân Âu Lạc bùng nổ. Từ đó cho đến đầu thế kỉ X, nhiều cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đến khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ năm 905, đã diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam (năm 100, 137, 144), nhân dân Cửu Chân (năm 157), nhân dân ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nổi dậy liên tục (178 - 181), tiếp sau đó là khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248), khởi nghĩa Lý Bí (năm 542), khởi nghĩa Đinh Kiến, Lý Tự Tiên (năm 687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa Phùng Hưng (khoảng 776 - 791), khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820).
Nhiều cuộc khởi nghĩa được các tầng lớp nhân dân ba quận tham gia, hưởng ứng, giành được thắng lợi, lập được chính quyền tự chủ trong một thời gian.
2. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
a) Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Tây). Được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân khởi nghĩa đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh Phúc), rồi từ Mê Linh tiến đánh, chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và Luy Lâu (Thuận Thành. Bắc Ninh). Thái thú Tô Định phải trốn chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi, Trưng Trắc được nhân dân suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh.
Lên làm vua. Trưng Vương bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ và xá thuế trong 2 năm liền cho nhân dân ba quận.
Nhiều nữ tướng tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa được phong chức tước như Trần Thị Đoan, Lê Chân, Thiều Hoa, Ngọc Lâm, Vũ Thục Nương... Tổ chức chính quyền của Trưng Vương còn rất sơ khai nhưng là một chính quyền độc lập, tự chủ của nhân dân ta được ra đời sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi và đã cổ vũ tinh thần đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc sau đó.
Mùa hè năm 42, Mã Viện được vua Hán cử làm tổng chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thuỷ, bộ kéo vào xâm lược nước ta.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo rất anh dũng, nhưng do lực lượng yếu nên đã bị thất bại.
Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ở Lãng Bạc. Nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch, Trưng Vương phải rút quân về cổ Loa Cổ Loa bị thất thủ, quân Trưng Vương lui về Hạ Lôi và từ Hạ Nội lui về giữ Cẩm Khê (vùng chân núi Ba Vì đến vùng chùa Hương - Hà Tây) Quân Mã Viện dồn sức đánh bại quân Hai Bà ở Cấm Khê. Hai Bà Trưng hi sinh. Đại quân của Hai Bà bị tan vỡ, số còn lại rút về chiến đấu ở Cửu Chân cho đến khi bị tiêu diệt.
b) Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân
Mùa xuân năm 542, nhân lúc nhân dân đang oán giận chế độ bóc lột hà khắc của nhà Lương, Lý Bí liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền Bắc nước ta, nổi dậy khởi nghĩa. Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh). Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Nhà nước Vạn Xuân độc lập, tự chủ ra đời.
Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên cùng với Thứ sử Giao Châu đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế phải rút quân về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục rút quân về đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) tổ chức kháng chiến. Đến năm 550, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Triệu Quang Phục lên làm vua (Triệu Việt Vương).
Năm 571, Lý Phật Tử (một người họ hàng với Lý Nam Đế) bất ngờ đem quân lánh úp Triệu Việt Vương, cướp ngôi. Sử ghi là Hậu Lý Nam Đế. Năm 603, nhà Tuỳ đem quân xâm lược. Lý Phật Tử bị bắt. Nhà nước Vạn Xuân kết thúc.
c) Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ
Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy sụp, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, đánh chiếm Tống Bình (Hà Nội), giành quyền tự chủ. Năm 907. Khúc Hạo lên thay, thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt để xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi về căn bản, tạo điều kiện để đi đến hoàn toàn tháng lợi vào năm 938.
d) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
Năm 931, Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, thay họ Khúc nắm giữ chính quyền tự chủ. Đầu năm 937, ông bị Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10 — 938. Ngô Quyền đem quân đánh Kiều Cống Tiễn. Công Tiễn cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán, lợi dụng cơ hội này, quân Nam Hán kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai.
Ngô Quyền nhanh chóng tiến quân vào thành Đại La (Hà Nội), bắt giết Kiều Công Tiễn và dùng kế đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng, cho quân mai phục ở bên bờ sông. Khi thuỷ triều lên, ông cho một toán quân ra khiêu chiến, giả lua, nhử quân Hán vào bên trong bãi cọc. Vừa lúc nước triều rút, cọc nhô quân ta đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng cọc lại bị đánh từ nhiều phía, tan vỡ, tướng giặc bị tiêu diệt.
Nhận xét về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỉ XVIII viết : “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”.
Quân 13 nhử địch vâo trận địa 4 4 Bãi cọc ngắm Địch tiến quân A A (giả định) Địch tháo chạy.
Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã mở ra một thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta.
Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X.
1.Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X
Năm 40, cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ đầu tiên của nhân dân Âu Lạc bùng nổ. Từ đó cho đến đầu thế kỉ X, nhiều cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đến khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ năm 905, đã diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam (năm 100, 137, 144), nhân dân Cửu Chân (năm 157), nhân dân ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nổi dậy liên tục (178 - 181), tiếp sau đó là khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248), khởi nghĩa Lý Bí (năm 542), khởi nghĩa Đinh Kiến, Lý Tự Tiên (năm 687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa Phùng Hưng (khoảng 776 - 791), khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820).
Nhiều cuộc khởi nghĩa được các tầng lớp nhân dân ba quận tham gia, hưởng ứng, giành được thắng lợi, lập được chính quyền tự chủ trong một thời gian.
2. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
a) Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Tây). Được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân khởi nghĩa đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh Phúc), rồi từ Mê Linh tiến đánh, chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và Luy Lâu (Thuận Thành. Bắc Ninh). Thái thú Tô Định phải trốn chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi, Trưng Trắc được nhân dân suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh.
Lên làm vua. Trưng Vương bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ và xá thuế trong 2 năm liền cho nhân dân ba quận.
Nhiều nữ tướng tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa được phong chức tước như Trần Thị Đoan, Lê Chân, Thiều Hoa, Ngọc Lâm, Vũ Thục Nương... Tổ chức chính quyền của Trưng Vương còn rất sơ khai nhưng là một chính quyền độc lập, tự chủ của nhân dân ta được ra đời sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi và đã cổ vũ tinh thần đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc sau đó.
Mùa hè năm 42, Mã Viện được vua Hán cử làm tổng chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thuỷ, bộ kéo vào xâm lược nước ta.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo rất anh dũng, nhưng do lực lượng yếu nên đã bị thất bại.
Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ở Lãng Bạc. Nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch, Trưng Vương phải rút quân về cổ Loa Cổ Loa bị thất thủ, quân Trưng Vương lui về Hạ Lôi và từ Hạ Nội lui về giữ Cẩm Khê (vùng chân núi Ba Vì đến vùng chùa Hương - Hà Tây) Quân Mã Viện dồn sức đánh bại quân Hai Bà ở Cấm Khê. Hai Bà Trưng hi sinh. Đại quân của Hai Bà bị tan vỡ, số còn lại rút về chiến đấu ở Cửu Chân cho đến khi bị tiêu diệt.
Hình 34-Đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh (Vĩnh Phúc)
b) Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân
Mùa xuân năm 542, nhân lúc nhân dân đang oán giận chế độ bóc lột hà khắc của nhà Lương, Lý Bí liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền Bắc nước ta, nổi dậy khởi nghĩa. Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh). Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Nhà nước Vạn Xuân độc lập, tự chủ ra đời.
Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên cùng với Thứ sử Giao Châu đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế phải rút quân về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục rút quân về đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) tổ chức kháng chiến. Đến năm 550, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Triệu Quang Phục lên làm vua (Triệu Việt Vương).
Năm 571, Lý Phật Tử (một người họ hàng với Lý Nam Đế) bất ngờ đem quân lánh úp Triệu Việt Vương, cướp ngôi. Sử ghi là Hậu Lý Nam Đế. Năm 603, nhà Tuỳ đem quân xâm lược. Lý Phật Tử bị bắt. Nhà nước Vạn Xuân kết thúc.
c) Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ
Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy sụp, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, đánh chiếm Tống Bình (Hà Nội), giành quyền tự chủ. Năm 907. Khúc Hạo lên thay, thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt để xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi về căn bản, tạo điều kiện để đi đến hoàn toàn tháng lợi vào năm 938.
d) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
Năm 931, Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, thay họ Khúc nắm giữ chính quyền tự chủ. Đầu năm 937, ông bị Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10 — 938. Ngô Quyền đem quân đánh Kiều Cống Tiễn. Công Tiễn cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán, lợi dụng cơ hội này, quân Nam Hán kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai.
Ngô Quyền nhanh chóng tiến quân vào thành Đại La (Hà Nội), bắt giết Kiều Công Tiễn và dùng kế đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng, cho quân mai phục ở bên bờ sông. Khi thuỷ triều lên, ông cho một toán quân ra khiêu chiến, giả lua, nhử quân Hán vào bên trong bãi cọc. Vừa lúc nước triều rút, cọc nhô quân ta đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng cọc lại bị đánh từ nhiều phía, tan vỡ, tướng giặc bị tiêu diệt.
Hình 35-Lược đồ chiến thắng Bạch Đằng năm 938
Nhận xét về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỉ XVIII viết : “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”.
Quân 13 nhử địch vâo trận địa 4 4 Bãi cọc ngắm Địch tiến quân A A (giả định) Địch tháo chạy.
Trình bày tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.Em có nhận xét gì về lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa ?
Mùa xuân năm 40, tại cửa sông Hát (Hát Môn, Hà Tây, nay là Hà Nội), Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa.
Nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh. Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến xuống đánh chiếm cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) ; rồi từ Cổ Loa, tấn công Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), trung tâm của chính quyền đô hộ và giành thắng lợi.
Sau khi đánh đuổi được quân đô hộ, Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương), đóng đô ở Mê Linh và phong chức tước cho những người có công, thành lập chính quyền tự chủ.
Các Lạc tướng được giữ quyền cai quản các huyện. Trưng Vương xá thuế hai năm liền cho dân. Luật pháp hà khắc cùng các thứ lao dịch nặng nề của chính quyền đô hộ bị bãi bỏ.
Được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, vua Hán nổi giận, hạ lệnh cho các quận miền Nam Trung Quốc khẩn trương chuẩn bị xe, thuyền, làm thêm đường sá, tích trữ lương thực để sang đàn áp nghĩa quân.
Em có suy nghĩ gì về việc những việc làm của làm của Lý Bí sau khi lãnh đạo khởi nghĩa giành thắng lợi ?
bạn vào đây tham khảo nha:
http://lop67.tk/hoidap/3897/suy-ngh%C4%A9-vi%E1%BB%87c-l%C3%A0m-c%E1%BB%A7a-sau-khi-l%C3%A3nh-%C4%91%E1%BA%A1o-kh%E1%BB%9Fi-ngh%C4%A9a-d%C3%A0nh-th%E1%BA%AFng-l%E1%BB%A3i
- Những việc làm đó thể hiện được sự yêu nước, thương dân.
- Việc đặt nước tên Vạn Xuân để cho đất nước chúng ta luôn trường tồn thật nhiều mùa xuân, mong muốn đất nước luôn hoà bình, khong bao giờ có chiến tranh xảy ra.
1.Hãy nêu những thành tựu của Cham-pa từ thế kỉ II-X
2. Theo em sau hơn 1000 năm đô hộ tổ tiên của chúng ta vẫn giữu được những phong tục tập quán gì? Ý nghĩa?
Giải thích các khái niệm cho sau đây :
Đồng hoá văn hoá :
Cống nạp :
Tam quốc :
Châu Giao :
Giao Chỉ :
Giao Châu :
Cống nạp: Cống nạp cho kẻ lớn mạnh hơn mình để mình được sống yên ổn, không bị quấy rầy
Giao Châu : là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Quốc ngày nay.
Giao Chỉ :
+Là tên gọi địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc.
+ Nguyên là tên gọi của một bộ trong số 15 bộ của nước Văn Lang thời xưa. Bộ Giao Chỉ thời Hùng Vương tương đương miền Hà Nội ngày nay và miền hữu ngạn sông Hồng.
1.Nước ta thuộc thời nhà Đường có gì thay đổi?
2.Trình bày diễn bieenscuar cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan
3.Nêu tóm tắt diễn biến của cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng
1.
-Năm 618, nhà Đường thống trị nước ta
-Nhà Đường đổi tên Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ.
-Trụ sở đặt tai Tống Bình (Hà Nội)
-Chúng cho sửa sang đường giao thông, xây thành, đắp lũy.
-Đặt ra nhiều loại thuế:muối, sắt
-Bắt nhân dân ta cống nộp nhiều sản vật quý đặc biệt là quả vải
2.
-Đầu thế kỉ VIII, khởi nghĩa bùng nổ. Nghĩa quân chiếm được Hoan Châu
-Ông liên kết với nhân dân Giao Châu và Chăm pa chiếm được thánh Tống Bình
=> Nhà Đường đem quân sanh đàn áp->Khởi nghĩa thất bại.
3.
-Khoảng năm 776, Phùng Hưng cùng là em của Phùng Hải đã phất cờ khởi nghĩa ở Đường Lâm
-Nghĩa quân nhanh chóng chiếm được thành Tống Bình và sắp đặt việc cai trị.
-Nhà Đường sanh đàn áp-> khởi nghĩa thất bại.
1.Dưới ách đô hộ của nhà Đường, nước ta có gì thay đổi ?
* Hướng dẫn trả lời :
Về mặt hành chính, nhà Đường chia lại khu vực hành chính và đặt tên mới. Nhà Đường đổi Giao Châu thành "Giao Châu đô hộ phủ", đến năm 679 đổi thành "An Nam đô hộ phủ" và chia thành 12 Châu. Ngoài ra còn có Châu Ki-mi ở miền núi Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là một viên đô hộ người Hán.
- Đứng đầu Châu là một viên Thứ sử người Hán.
- Dưới Châu là huyện, dưới huyện là hương, xã. Các huyện lệnh do người Hán nắm. Còn hương, xã do người Việt tự quản.
Nhà Đường nắm quyền cai trị trực tiếp tới huyện.
2.Trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan.
* Hướng dẫn trả lời :
- Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào những năm 10 của VIII. Nghĩa quân nhanh chóng chiếm thành Hoan Châu. Nhân dân Ái Châu, Diễn Châu nổi dậy hưởng ứng. Mai Thúc Loan chọn vùng Sa Nam (Nam Đàn) xây dựng căn cứ. Ông xưng đế gọi là Mai Hắc Đế (Vua Đen). Sau đó ông lại liên kết với nhân dân khắp Giao Châu và Chăm Pa, kéo về tấn công Tống Bình, đuổi quân xâm lược về nước.
- Năm 722, nhà Đường cử Dương Tư Húc đem 10 vạn quân sang đàn áp. Mai Hắc Đế thua trận, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
Tại sao nhà Hán xâm chiếm nước Văn Lang ? Chúng có lợi gì ? Em hãy đánh giá sự kiện lịch sử trên ?
Giúp mik nha !!!!!!!!!!!
Theo em thì việc xâm chiếm được 1 vùng đất mới sẽ mang lại lợi ích gì?
Về vật chất thì có thể là thêm đất, thêm dân, thêm tiền của, thuận lợi cho giao lưu buôn bán với Đông Nam Á...
Về tinh thần: khẳng định sức mạnh dân tộc, thể hiện tinh thần Đại Hán...
Sau sự kiện này, tình hình Âu Lạc như thế nào? Có còn là quốc gia độc lập? Em có thể đánh giá sự kiện này qua gợi ý trên của cô và nghĩ ra được nhiều ý tưởng hơn thế.
Cô rất vui vì đã nhận được câu hỏi rất hay và thú vị của em.
Chúc em học tốt!
để mở rộng lánh thổ
có lợi làm nhà Hán giày thêm :))
đánh giá: Chẳng ra thể thống công rãnh j` hết :)))) =))
1.Trong thời gian Bắc thuộc , nước ta đã bị mất tên , bị chia ra , nhập vào với các quận , hyện của Trung Quốc với nhữg tên gọi khác nhau như thế nào ? Hãy thống kê cụ thể qua tùng giai đoạn bị đô hộ.
2. Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nhân dân ta trong thời Bắc thuộc như thế nào ? Chính sách thâm hiểm nhất của họ là gì ?
Câu 1: thời kỳ Nam Việt (tức là thờ kỳ Triệu ĐÀ và con cháu (207 TCN - 111TCN): Âu Lạc chia thành Giao Chỉ và Cửu Chân.
Thời nhà Tây Hán (111TCN- 39) nước ta vẫn là 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
Thời Đông Hán (25 - 220) và thời Đông Ngô (222 - 280) thì nước ta được đổi thành Giao Châu.
Tên Giao Châu cũng được giữ nguyên cho đến 938 khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán. Chỉ có tên các huyện thì được đổi đi, chỉ đời nhà Lương thời Nam Bắc Triều thì có chia Giao Châu thành Ái Châu, Đức Châu, Lợi Châu, Minh Châu, Giao Châu.
Câu 2 : Chính sách cai trị của các triều địa phong phong kiến chủ yếu vẫn là vơ vét của cải, chế độ ngư dân, phu dịch nặng nè, bắt nhân dân ta lên rừng, xống biển kiếm sản vật..... nhưng tàn ác và thâm độc nhất vẫn là chính sách đồng hóa nhân dân ta, giết chết con trai và bắt phụ nữ Việt lấy trai Tàu. Nếu ko nhờ các lũy tre làng với không gian văn hóa làng xã thì có lẽ nước Việt đã mất. Đó là bài học cho nhân dân ta ngày này trong bảo vệ văn hóa truyền thống và tồn vong của dân tộc