Viết một đoạn văn ngắn có chủ đề "Chào mừng trường mới" trong đó có sử dụng các từ nhiệt liệt,hân hoan, trang trọng.
Viết một đoạn văn ngắn có chủ đề "Chào mừng trường mới" trong đó có sử dụng các từ nhiệt liệt,hân hoan, trang trọng.
Thế là ngày 5-9 gần đến rồi, trường tôi hân hoan chào đón trường mới. Đứa nào cũng nở những nụ cười rạng rỡ. Sân khấu được trang trí trang trọng, và đẹp mắt.
Những hàng hoa hàng cây được cắt tỉa tỉ mỉ, đứa nào cũng mặc trên mình bộ quần áo mới. Khi bắt đầu buổi lễ cô Trâm hô to nói" Nhiệt liệt chào mừng các vị địa biểu và các em học sinh tới ngôi trường mới" đứa vào cũng vỗ tay hoan hô. Ngày hôm ấy ngôi trường thật náo nhiệt.
Chào mừng trường mới, thầy trò chúng tôi được dịp đón tiếp nhiều thế hệ cán bộ, giáo viên về dự và chia vui. Từ sáng sớm, chúng tôi đã nghiêm chỉnh xếp hàng trong những bộ lễ phục lịch sự, gọn gàng. Khi đoàn đại biểu xuất hiện, một tràng pháo tay nhiệt liệt vang lên. Không khí hân hoan, phấn khởi bao trùm khắp cả sân trường. Khi đoàn đại biểu đã ngồi vào hàng ghế trang trọng nhất cũng là lúc chương trình chào mừng trường mới được chính thức bắt đầu.
Hôm nay mình bệnh nghỉ học .
Nhưng không biết viết giấy xin phép như thẾ NÀO . Có ai bày không
gần hết buổi học r còn viết j nx mà hôm nay ai cx đc nghỉ mà
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh,ngày ......tháng........năm......
Đơn xin nghỉ học
Kính gửi:Ban giám hiệu trường......
Giáo viên chủ nhiệm lớp.....
Em tên:......
Học sinh lớp:......
Lí do:.......
Lời hứa:.....
Ý kiến phụ huynh Người làm đơn
Sưu tầm ca dao dân ca chủ đề than thân. GIúp mình với mình cần gấp
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm rồi mới biết rằng em ngọt bùi
Ai về đợi với em cùng:
Thân em nay Bắc mai Đông một mình
Chi bằng ruộng tốt rừng xanh
Vui cha, vui mẹ, vui anh em nhà!
Anh nói với em như rìu chém xuống đáNhư rạ chém xuống đất,
Như mật rót vào tai
Bây giờ anh đã nghe ai
Bỏ em ở chốn non đoài bơ vơ.”
Anh tiếc cho ai nuôi dạy mong chờ
Một hai ba bốn tuổi đến bây giờ em lớn khôn
Cái vành khăn em vấn đã tròn
Câu cười tiếng nói đã giòn em lại ngoan
Sợi tơ hồng đã buộc với nhân duyên
Sao em không chịu khó vác giang san cho chồng
Nỡ dang tay em dứt tơ hồng
Đứng đầu núi nọ mà trông bên non nầy
Ánh phong lưu son phấn đọa dài
Thay đen đổi trắng ai rày yêu thương
Dẫu may ra tán tía tàn vàng
Mười phương thiên hạ xem thường có vào đâu
Tấm thân em chẳng nghĩ mặc dầu
Bọn đàn bà còn để tiếng xấu về sau muôn đời
Chị em ơi thế cũng kiếp người
Anh có thương thì thương cho chắc
Có trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ nọ đứng đầu truông
Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng.
Bướm vàng đậu nhánh mù u,
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Buồn riêng rồi lại tủi thân,
Hai tay áo vải ướt đẫm cả hai.
Biết chừng nào con cá ra khỏi vực,
Biết chừng nào hết khổ cực thân em ?
Bởi vì con heo nên phải đèo khúc chuối,Bởi vì con muỗi nên phải thả màn loan.
Bởi vì chàng nên thiếp phải chịu đòn oan,
Phụ mẫu nhà đay nghiến, thế gian chê cười.
Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm
Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái ôm lưng lão già
Ông ơi ông buông tôi ra
Kẻo người ta thấy, người ta chê cười
Con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non,
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng,
Chân đi đá lại dùng dằng,
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Chồng chị chị để trên bàn
Phòng khi đi chợ mua màn về che
Thân em như cái chổi để đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân.
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tối có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa, cò về?
Cò về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn cò về làm chỉ
Cò về thăm bác thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc thăm dì xứ Đông.
Con cò lấp lé bụi tre
Sao cò lại muốn lăm le vợ người
Vào đây ta hát đôi lời
Để cho cò hiểu sự đời , ở ăn
Sự đời cò lấy làm răn
Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời.
Cái cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra là ra cánh đồng.
Cái cò bay bổng bay lơ
Lại đây anh gởi xôi ngô cho nàng.
Đem về nàng nấu nàng rang,
Nàng ăn có dẻo thì nàng lấy anh.
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đứng ông coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia!
Cái cò cái vạc cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào
Vặt lông con vạc cho tao
Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn!
Cái cò cái vạc cái nông
Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.
Cái cò chết tối hôm qua
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau răm
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.
Cái cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy,
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?
Cổ yếm em thõng thòng thòng,
Tay em đeo vòng như bắp chuối non.
Em khoe em đẹp em giòn,
Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay ngồi một xó, hay ăn thịt gà
Ai ra ruộng chú ở nhà
Nói thì dở giọng ba hao chích chòe!
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa!
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Cái cò lặn lội bờ sông,
Muốn lấy vợ đẹp, nhưng không có tiền!
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Chàng đi xa vợ xa con
Chàng đi đến tận nước non Cao Bằng
Chân đi nhưng dạ dùng dằng
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con!
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non cùng người
Cái cò lặn lội bờ sông
Cổ dài mỏ cứng cánh cong lưng gù
Bã xa sông rộng sóng to
Vì lo cái bụng đi mò cái ăn.
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đi lặn lội đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Con lươn thụt xuống, con cò bay lên.
Cái cò là cái cò kỳ
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô
Đêm nằm thì ngáy o o
Chưa đi đến chợ đã lo ăn quà
Hàng bánh hàng bún bầy ra
Củ từ khoai sọ, đến bà cháo kê
Ăn rồi cắp đít ra về
Thấy hàng chả chó, lại lê chân vào
Chả này bà bán ra sao
Ba đồng một gắp, thì nào tôi mua!
Nói dối rằng mua cho chồng
Về đến quãng đồng, ngả nón ra ăn
Ăn rồi đau quặn đau quăn
Chạy về cho kịp, nằm lăn cả ngày
Đem tiền đi bói ông thầy
Bói ra quẻ này: những chả cùng nem
Ông thầy nói dối đã quen
Nào ai ăn chả ăn nem bao giờ!
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai,
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm!
Cái cò là cái cò vàng
Mẹ đi bán hàng, nhà lại vắng cha
Vắng cha thì ở với bà
Không ở với chú, chú là đàn ông.
Cái cò là cái cò vàng
Mẹ đi đắp đàng con ở với ai
Con ở với bà, bà không có vú
Không ở với chú, chú là đàn ông.
Thôi con chết quách cho xong!
Con cò là con cò vàng
Muốn đi hát đúm sợ làng cười chê
Ai cười lời kẻ thôn quê
Mà cò ngần ngại đứng lề đường quan
Hay cò vui câu xẩm xoan
Thì cò bay đến hân hoan cùng người.
Cái cò mà mổ cái tôm
Cái tôm quắp lại mà ôm cái cò.
Cái cò mà mổ cái trai,
Cái trai quắp lại mà nhai cái cò.
Cái cò trắng bạch như vôi
Cô kia có lấy chú tôi thì về.
Chú tôi chẳng mắng chẳng chê,
Thím tôi thì mổ lấy mề nấu canh!
Con cò trắng bệch như vôi
Đừng nông nổi nữa, đừng lời nguyệt hoa
Ví dù muốn đẹp đôi ta
Đừng như cánh bướm quanh hoa đầu mùa
Đừng vê thuốc, đừng bỏ bùa
Đừng như chú tiểu ở chùa Thiều Quang
Đừng thắm nhạt, đừng đa đoan
Nên duyên thì phượng với loan một lời
Giăng kia vằng vặc giữa giời
Giăng ai soi tỏ lòng người nầy cho.
Con cò trắng tợ như vôi
Tình tôi với bậu xứng đôi quá chừng!
Con cò trắng toát như bông
Muốn nghe hát đúm mà không chịu vào
Nghĩ gì, cò đậu cành cao
Nghiêng nghiêng, nghé nghé nửa chào nửa e
Xuống đây cho ta nhắn nhe
Đừng đứng trên ấy gãy tre của làng.
Cái trai mày há miệng ra,
Cái cò nó mổ muốn tha thịt mày.
Cái cò mày mổ cái trai,
Cái trai quặp lại muốn nhai thịt cò.
Con cò mà mổ con trai
U ơi, U lấy vợ hai cho thầy.
Cái cò lăn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng
Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay uống trè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh
xác định các từ loại được in hoa dưới đây:
a.THẾ là mùa xuân mong ước đã đến
b.anh ấy vừa đi đã có người THẾ chỗ
c.MẤY trước dậu hoa năm ngoái
d.nhà bạn có MẤY anh chị em
giúp mình với
a) Đại từ
b) Động từ
c) Đại Từ
d) Lượng từ
a) Đại từ
b) Động từ
c) Đại từ
d) Lượng từ
em hay neu diem chung ve noi dung va nghe thuat cua ba bai ca dao trong bai (bai:nhung cau hat than than / SGK / 48 / ngu van 7)
lam giup mk nhe ?
cam on truoc nhe!
Từ thuở ấu thơ cho đến bây giờ, em ghi nhớ mãi có lẽ là nụ cười của mẹ. Nụ cười của mẹ luôn nở trên môi trong suốt thời gian chăm sóc nuôi em lớn lên như hôm nay. Nụ cười của mẹ là cả một tình yêu đối với em.
Từ lúc nhỏ em đã thấy mẹ làm công việc vất vã cho gia đình em nhưng trên khuôn mặt mẹ luôn nở nụ cười rạng rỡ và hạnh phúc. Nụ cười của mẹ đã an ủi em khi ba đánh. Nhiều lần, em bị ốm nặng, mẹ đã chăm sóc em thật chu đáo. Mỗi khi mẹ buồn rầu, em cảm thấy khuôn mặt mẹ vắng nụ cười. Lúc ấy em lo lắng biết bao. Em đến bên mẹ :”Mẹ ơi! Sao mẹ buồn thế, mẹ buồn con phải không?” Mẹ nói:”Không sao, mẹ chỉ hơi mệt. Mẹ nghĩ ngơi một chút sẽ khỏi” Em mong mẹ khỏi bệnh thật nhanh để em lại thấy nụ cười của mẹ. Em luôn giúp đỡ mẹ để mẹ vui lòng, luôn có nụ cười trên môi.
Và nụ cười của mẹ theo suốt cuộc đời, động viên khích lệ em vững bước trên đường đời. Em sẽ tự hào về nụ cười của mẹ. Một người mẹ kính yêu của em...
Câu 1 :Cách lập ý trong bài thơ "Bạn đến chơi nhà " có gì độc đáo.Hãy chỉ rõ.
Câu 2 : Vẻ đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên như thế nào trong bài thơ "Bạn đến chơi nhà" ?
Câu 3 : Cách dùng từ trong bài "Bạn đến chơi nhà" có gì đáng chú ý. Hãy chỉ rõ
Song Sống trong ngọc đá kim cương
Không bằng sống giữa tình thương bạn bè
Câu ca dao đã nêu bật được một tình cảm thiêng liêng đáng quý - Tình bạn chân thành thắm thiết. Nguyễn Khuyến, một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn u hoài, sống hiu quạnh nơi nông thôn, cũng cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Ta hãy lắng nghe tiếng nói chân thành mộc mạc của nhà thơ khi nói với bạn:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyếnẵ
Một chút nhẹ nhàng tự nhiên hóm hỉnh được tác giả mở đầu bằng câu thơ:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Câu thơ như một lời chào hồ hởi thân mật vừa bộc lộ nỗi vui bất ngờ vừa tỏ ý trân trọng, quý mến bạn. Đã bấy lâu nay có nghĩa là một thời gian dài, một thời gian nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp nhau làm sao mà không xúc động, không vui mừng cho được. Từ lúc cáo quan về vui sống với cảnh điền viên, ông chỉ biết lấy thiên nhiên làm bạn. Trái tim ông gửi trọn cho đất nước quê hương, nên tâm hồn luôn khắc khoải u hoài. Trong những giây phút ấy mà không ai không muốn có một người bạn để tâm sự, để an ủi. Người bạn đó đã đến với ông - Còn nỗi vui mừng nào hơn. Chính nỗi vui mừng, bất chợt mà Nguyễn Khuyên đã thốt ra lời bông đùa với bạn một cách dí dỏm cho thoả lòng trông đợi.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Mới nghe qua, ta thấy dường như nhà thơ tỏ ý làm tiếc rằng đã lâu lắm rồi bạn mới tới nhà vậy mà không có một thứ gì để tiếp, bạn để thết đãi bạn cả: chợ thì xa, người nhà trẻ con đều đi vắng cả, ao thì sâu mà nước lớn, nên không chài bắt được cá; vườn rộng thênh thang thì khó mà bắt được gà. Đến một cây cải, mớ cà hoặc một quả bầu, một trái mướp cũng không sẵn; thậm chí một miếng trầu để tiếp khách cũng không có. Tác giả đang phân trần, giải thích sự thiếu sót của mình. Thực ra đây chỉ là cách nói cường điệu như vậy mà đã đùa với bạn, vừa tỏ thái độ nhớ mong chờ đợi bấy lâu mà thôi. Và qua những lời trần tình ấy ta cũng hiểu được cuộc sống của tác giả ở làng quê: đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn.
Nhịp thơ đều đặn 4-3 nhẹ nhàng êm ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười hóm hỉnh, cười vui của tác giả. Đối lập với những cái "không" ấy là cái có thật đáng quý.
Bác đến chơi đây, ta với ta...
Câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất. Bác đến chơi đây không có gì cả, chỉ có ta với ta khiến ta nhớ đến câu kết trong bài Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước cảnh đèo ngang hoang vắng cô liêu, đang mang nặng một nỗi u buồn, niềm suy tư khôn cả, không thể tâm sự cùng ai, nên bà tự quay về với lòng mình “ta với ta”. Còn “ ta với ta” mà nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhằm chỉ nhà thơ và người bạn tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó gắn bó quyện chặt vào nhau, không gì chia cắt được. Ở đây chỉ có ta với ta nhưng lại có tất cả. Bởi vì tình bạn giữa ta với ta mới là cao quý, nó không đòi hỏi bất kì một điều kiện vật chất nào cả, thậm chí cả một miếng trầu làm đầu câu chuyện để tiếp bác cũng không. Qua đó ta mới thấy nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật là hóm hỉnh nhẹ nhàng mà tế nhị sâu sắc.
Bài thơ thể hiện sự thành công của tác giả trong bút pháp trào phúng. Ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy là bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc nhưng lời thơ lại bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những sản vật của nông thôn được đưa vào thơ ông thật đậm đà hương vị làng quê. Ngôn ngữ quần chúng kết hợp với âm a (nhà, xa, cá, gà, hoa, ta) thể hiện rõ nét chất phác thật thà đôn hậu của một con người. Chính yếu tố âm điệu, nhịp điệu bài thơ phối hợp nhịp nhàng tạo ra một mạch thơ liên tục, thanh thoát, tự nhiên như lời nói chuyện tâm tình của nhà thơ với người bạn tri âm tri kỷ của mình.
Đây là một trong những bài thơ hay về tình bạn trong sáng chân thành thắm thiết của Nguyễn Khuyến. Bài thơ làm nổi bật một nét đẹp trong cuộc đời và thơ văn Nguyễn Khuyến. Ông xứng đáng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam. Tình bạn cao cả tuyệt vời của nhà thơ sẽ là bài học giúp ta tìm và cảm nhận được những tình cảm thiêng liêng đáng quý đó.
Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con,…”
(Theo Lí Lan, Cổng trường mở ra)
Từ việc người mẹ không “cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để con tự đi, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) bàn về tính tự lập.
-> Gợi ý:
+ Nêu lại câu văn trên đề bài để dẫn đến tính tự lập
+ Giải thích: tự lập là gì? ( nghĩa đen: tự đứng một mình, không có sự giúp đỡ của người khác. Tự lập là tự mình làm lấy mọi việc, không dựa vào người khác).
Người có tính tự lập là người biết tự lo liệu, tạo dựng cuộc sống cho mình mà không ỷ lại, phụ thuộc vào mọi người xung quanh.
+ Phân tích:
_ Tự lập là đức tính cần có đối với mỗi con người khi bước vào đời.
_ Trong cuộc sống không phải lúc nào chúng ta cũng có cha mẹ ở bên để dìu dắt, giúp đỡ ta mỗi khi gặp khó khăn. Vì vậy, cần phải tập tính tự lập để có thể tự mình lo liệu cuộc đời bản thân.
_ Người có tính tự lập sẽ dễ đạt được thành công, được mọi người yêu mến, kính trọng.
_ Dẫn chứng.
+ Phê phán: _ Tự lập là một phẩm chất để khẳng định nhân cách, bản lĩnh và khả năng của một con người. Chỉ biết dựa dẫm vào người khác sẽ trở thành một gánh nặng cho người thân và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. Những người không có tính tự lập, cứ dựa vào người khác thì khó có được thành công thật sự.
+ Mở rộng: tự lập không có nghĩa là tự tách mình ra khỏi cộng đồng. Có những việc chúng ta phải biết đoàn kết và dựa vào đồng loại để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
+ Liên hệ bản thân: cần phải rèn luyện khả năng tự lập một cách bền bỉ, đều đặn. Để có thể tự lập, bản thân mỗi người phải có sự nỗ lực, cố gắng và ý chí mạnh mẽ để vươn lên, vượt qua thử thách, khó khăn, để trau dồi, rèn luyện năng lực, phẩm chất.
Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con,…”
(Theo Lí Lan, Cổng trường mở ra)
Từ việc người mẹ không “cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để con tự đi, hãy viết một bài văn ngắn
Lam sach bt ngu van
chi mình làm viết 1 đoạn văn ngắn từ 9 đến 12 câu, nêu cảm nhận về bài ca dao "Công cha như núi ngất trời.....Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi." Nếu ko làm thì mình bị la.
Công cha như núi ngất trời ...... Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao trên làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình.
Mở đầu bài ca dao, tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”. Đó là công sinh thành, dưỡng dục; Đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khắng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào.
Đây cùng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Đối công cha với nghĩa mẹ, núi với biển là cách diễn đạt quen thuộc, đồng thời cùng làm cho các hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao hơn.
Phép so sánh trên đã làm nổi bật một ý nghĩa sâu xa: công ơn cha mẹ vô cùng to lớn, không thể nào cân đong đo đếm hết được: “Núi cao bể rộng mênh mông”. Bởi vậy, kết lại bài ca dao, tác giả dân gian đưa ra lời nhắn nhủ: Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhắc đến “cù lao chín chữ” là nhắc đến công ơn mang nặng đẻ đau, công ơn sinh thành dưỡng dục nuôi nấng con thành người của cha của mẹ. Để có con khôn lớn hôm nay, cha mẹ đã trải qua bao vất vả, đau đớn, cực nhọc,... Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Tiếng “ơi!” vang lên thể hiện tình cảm tha thiết, mong muốn chân thành cảm động của tác giả dân gian.
Bài ca dao khép lại để lại trong lòng người đọc niềm xúc động thiêng liêng về công ơn trời bể của những đấng sinh thành. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ.
Viết 1 đoạn văn trình bày cảm nhận của em về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua bài
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.
Tham khảo
Mở bài
- Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ là hình ảnh được xuất hiện nhiều trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay đặc biệt là trong ca dao dân ca.
Thân bài
Khái quát chung về hình tượng người phụ nữ truyền thống, là người có vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng, biết hy sinh nhưng đều chịu cuộc đời bất hạnh, khổ đau, gặp nhiều bi kịch.
- Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của cái đẹp:
Vẻ đẹp ngoại hình. Vẻ đẹp của nội tâm bên trong với những đức tính cao đẹp truyền thống.- Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của những số phận bi thương:
Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền, theo lối tư tưởng phong kiến cũ “trọng nam khinh nữ”. Người phụ nữ không được tự quyết định cuộc sống của mình vẫn theo quan điểm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Thân phận người phụ nữ trôi nổi như tấm lụa đào, như cánh bèo trôi vô định không biết dạt về đâu. Nỗi khổ khi người phụ nữ không được tự quyết định tình yêu của mình, khao khát với tình yêu mà không với tới.- Số phận của người phụ nữ khi lấy chồng.
Cảnh cô đơn lẻ bóng khi chồng đi xa. Cảnh nhớ về quê mẹ u buồn, tủi cực.(Chứng minh từng ý lấy các dẫn chứng là các câu ca dao than thân cho từng ý).
Tố cáo xã hội phong kiến cũ đã đẩy những thân phận con người nhỏ bé vào bể hố sâu.
Kết bài
- Thể hiện sự đồng cảm đối với những số phận người phụ nữ chịu thiệt thòi trong xã hội đầy bất công.
Ca dao – dân ca phản ánh sinh động đời sống tình cảm phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật khác nhau. Ví dụ một số câu mở đầu bằng cụm từ Thân em và nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý cùng số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá nhỏ bé, gần như vô nghĩa. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau.