tìm câu phủ định trong bài chiếu dời đô "huống gì ...đế vương muôn đờ"
tìm câu phủ định trong bài chiếu dời đô "huống gì ...đế vương muôn đờ"
Giúp mình với cần gấp ạ =((((
Câu 1: Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn.
Thể loại: thể loại chiếu. Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Chiếu có thể viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; được công bố và đón nhận một cách trang trọng.
Câu 2: Những thuận lợi của thành Đại La khi làm kinh đô và khẳng định không còn nơi nào xứng hơn nữa.
Viết đoạn văn khoảng 3-5 câu nói về Lý Công Uẩn trong bài chiếu dời đô Giúp mình với ạ cần gấp lắm :(((
Lý Công Uẩn là một vị vua kiệt suất của đất nước ta, ông được mệnh danh là " Một vị anh minh khai mở 1 triều đình chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã rất quan tâm tới nhân dân". Lí Công Uẩn đã lập nên một triều đại nhà Lí lẫy lừng. Nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lí Công Uẩn đã phát triển rất lớn mạnh lớn mạnh ...khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt. Ông chính là người đã viết "Chiếu dời Đô", thuyết phục việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Ông nhìn ra được, nơi đây có thế “rồng cuộn hổ ngồi”,“đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi”. Việc đó là một bước ngoặc rất lớn, nó đánh dấu sựtrưởng thành của dân tộc đại Việt . Bằng tầm nhìn đó, không có gì có thẻ phủ định được sự thông minh, sáng suốt của ông. Không chỉ là một người có tầm nhìn cao, Lý Công Uẩn còn là một vị vua yêu nước thương dân, có tinh thần dân chủ... Ông luôn thương xót cho những người dân vô tội, phải bất đắc dĩ bị lôi vào chiến tranh. Tóm lại, Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh, tài giỏi, ông chính là một vị vua vĩ đại của dân tộc
Qua tác phẩm Chiếu dời đô, ta thấy rằng Lí Công Uẩn là một vị vua yêu nước. Vốn dĩ nhà vua có lòng yêu nước thương dân nên ông vô cùng đau xót trước cảnh đất nước nghèo nàn, nhân dân đói khổ. Hơn ai hết ông đã nhìn thấy nguyên nhân một phần là do hai nhà Đinh, Lê cứ theo ý mình đóng đô ở Hoa Lư, nơi có địa hình núi non hiểm trở, dựa vào thế núi non đó để bảo toàn quyền lợi của triều đại mà không nghĩ đến việc xây dựng và phát triền đất nước, chăm lo hạnh phúc cho muôn dân. Đến tận bây giờ mới được Lí Công Uẩn tìm ra được nơi đây, đây chẳng phải là điều khẳng định thêm cái tài bên cạnh cái đức của nhà vua hay sao? Đây bài chiếu này không chỉ đơn thuần là ban bố mệnh lệnh của một nhà vua cao quý cho triều thần và nhân dân phải răm rắp thực hiện theo mà nó còn là lời trao đổi, bàn bạc với quần thần cùng cảm xúc chân thành.
tk
Lý Công Uẩn là một vị vua kiệt suất của đất nước ta, ông được mệnh danh là " Một vị anh minh khai mở 1 triều đình chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã rất quan tâm tới nhân dân". Lí Công Uẩn đã lập nên một triều đại nhà Lí lẫy lừng. Nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lí Công Uẩn đã phát triển rất lớn mạnh lớn mạnh ...khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt. Ông chính là người đã viết "Chiếu dời Đô", thuyết phục việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Ông nhìn ra được, nơi đây có thế “rồng cuộn hổ ngồi”,“đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi”. Việc đó là một bước ngoặc rất lớn, nó đánh dấu sựtrưởng thành của dân tộc đại Việt . Bằng tầm nhìn đó, không có gì có thẻ phủ định được sự thông minh, sáng suốt của ông. Không chỉ là một người có tầm nhìn cao, Lý Công Uẩn còn là một vị vua yêu nước thương dân, có tinh thần dân chủ... Ông luôn thương xót cho những người dân vô tội, phải bất đắc dĩ bị lôi vào chiến tranh. Tóm lại, Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh, tài giỏi, ông chính là một vị vua vĩ đại của dân tộc
Từ tác phẩm đã xác định ở trên, em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay để xây dựng một thủ đô văn minh, thanh lịch, hiện đại.
Giúp mik vớiiiiiiiiiiiiiii
giúp mik với ạ mik đang cần gấp , xíu nữa nộp bài cho cô rồi cứu mik !!
Dựa vào nội dung văn bản và bằng hiểu biết của em về Thăng Long xưa - Hà Nội ngày nay, em hãy viết đoạn văn tổng phân hợp 12 câu trình bày suy nghĩ của em về vị vua Lý Thái Tổ, người được nhận định là “một vị vua anh minh, sáng suốt trong việc lựa chọn Đại La làm kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Trong đoạn văn có sử dụng thích hợp một câu cảm thán (gạch chân- chú thích)
Thamkhao
Lý Công Uẩn là một vị vua kiệt suất của đất nước ta,là“một vị vua anh minh, sáng suốt trong việc lựa chọn Đại La làm kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”". Lí Công Uẩn đã lập nên một triều đại nhà Lí lẫy lừng. Nhà Lý dưới sự trị vì của vua Lí Công Uẩn đã phát triển rất lớn mạnh lớn mạnh ...khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt. Ông chính là người đã viết "Chiếu dời Đô", thuyết phục việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Ông nhìn ra được, nơi đây có thế “rồng cuộn hổ ngồi”,“đúng ngôi nam bắc đông tây” lại “nhìn sông dực núi”. Việc đó là một bước ngoặc rất lớn, nó đánh dấu sựtrưởng thành của dân tộc đại Việt . Bằng tầm nhìn đó, không có gì có thẻ phủ định được sự thông minh, sáng suốt của ông. Không chỉ là một người có tầm nhìn cao, Lý Công Uẩn còn là một vị vua yêu nước thương dân, có tinh thần dân chủ... Ông luôn thương xót cho những người dân vô tội, phải bất đắc dĩ bị lôi vào chiến tranh.Ông có một tấm lòng thật đáng ngưỡng mộ! Tóm lại, Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh, tài giỏi, ông chính là một vị vua vĩ đại của dân tộc
Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu làm sáng tỏ nhận định"Thành Đại La là thắng địa xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời". Trong đoạn văn có sử dụng một câu cảm thán(chú thích rõ)
Lưu ý : mik đã viết xong đoạn văn chỉ cần các bạn giúp mik viết câu cảm thán.
giúp mik vs mik đang cần gấp
Tham khảo nha em:
Đại La là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Thật vậy, vua Lý Công Uẩn với tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng yêu nước thương dân của mình từ sớm đã nhận ra mảnh đất của cố đô Hoa Lư không còn phù hợp cho đất nước ta sinh sống và phát triển nữa. Đầu tiên, mảnh đất Đại La là mảnh đất có thế đất đẹp.Trong văn bản Chiếu dời đô, vua Lý Công Uẩn đã chỉ ra kinh thành Đại La là nơi "ở vào trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi". Với những chứng cứ vô cùng thuyết phục như vậy, vua Lý Công Uẩn đã chỉ ra được đây chính là mảnh đất dành cho những bậc đế vương vì thế đất đạt đến độ lý tưởng theo phong thủy của nước ta. Thứ hai, kinh thành Đại La là mảnh đất thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi, lại ít thiên tai. Ngày trước, vào triều đại nhà Đinh Trần, nước ta phải đóng đô ở kinh thành Hoa Lư vì nơi đó núi non hiểm trở, thuận tiện cho việc tấn công và phòng thủ của nước ta trong trận chiến chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, nếu như cứ đóng đô ở Hoa Lư thì nhân dân sẽ chẳng thể trồng trọt và canh tác nông nghiệp được. Chính vì vậy, mảnh đất Hoa Lư đất cao mà rộng bằng phẳng, màu mỡ thì sẽ thuận lợi cho nông nghiệp và trồng trọt, tránh được ngập lụt làm khổ nhân dân. Bên cạnh đó, khung cnarh thiên nhiên của Đại La cũng rất tốt tươi và phong phú. Chính vì vậy, nhà vua đã kết luận đây chính là thắng địa của đất nước, là nơi hội tụ trọng yếu của 4 phương đất nước. Chao ôi, quả là một vị vua anh minh sáng suốt làm sao! Tóm lại, kinh thành Đại La chính là kinh thành bậc nhất của đế vương muôn đời
Câu cảm thán:Đây thật là một nơi thuận lợi, tốt đẹp biết chừng nào!
sau khi học xong bài chiếu dời đô em có những cảm nhận như thế nào
Sau khi học xong văn bản "Chiếu dời đô", em đã cảm nhận được nhiều điều sâu sắc. Thật vậy, theo em, đây chính là văn kiện lịch sử có tính quan trọng đối với vận mệnh của VN. Đầu tiên, em thấy được vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn. Chao ôi , ông chính là người lo lắng cho vận mệnh của dân tộc! Vì yêu nước thương dân mà vua Lý Công Uẩn quyết định rời đô để có thể yên ổn đời sống cho nhân dân. Sự dời chuyển kinh đô này chính là để tạo tiền đề cho sự phát triển hùng mạnh của dân tộc, là ý chí khát vọng tự cường ngàn đời của đất nước. Ông là người lãnh đạo anh minh, đặt lợi ích của nhân dân và dân tộc lên ưu tiên hàng đầu. Phải chăng quyết định rời chuyển kinh đô của Lý Công Uẩn là do ông sớm nhận ra điều kiện ở cố đô Hoa Lư không còn thích hợp cho nhân dân phát triển? Thứ hai, điều mà em cảm nhận được đó là sự trường tồn vĩnh cửu lâu bền hơn 1000 năm nay nhờ quyết định dời đô về thành Đại La của vua Lý Công Uẩn. Là một học sinh thủ đô, em ý thức được vai trò của mình trong việc cố gắng học tập thật tốt để xây dựng đất nước, tiếp bước cha anh mình.
Trong 215 năm trị vì (từ 1010 đến 1225) của nhà Lý, có thể nói vị vua được nhắc đến nhiều nhất là vua Lý Thái Tổ - người đã khởi dựng triều đại nhà Lý, người đã xác lập cho nước ta một thủ đô chính thức khá sớm (từ năm 1010). Việc chọn Đại La (Thăng Long – tức Hà Nội bây giờ) làm trái tim của đất nước của Lý Thái Tổ đã khởi đầu lịch sử thủ đô Thăng Long-Hà Nội và góp phần tạo dựng truyền thống văn hiến và anh hùng của đất kinh kỳ.
Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), lên ngôi vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là “theo ý trời”)(1). Quê làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), sinh năm Giáp Tuất (974), mẹ chết khi ông còn nhỏ tuổi, nhờ sự nuôi dạy của hai thiền sư nổi tiếng uyên bác lúc bấy giờ là Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh ngay từ thuở nhỏ nên Lý Công Uẩn đã trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn.
Chí lớn tỏ rõ khác thường
Theo truyền thuyết, trước khi mẹ Lý Công uẩn (lúc này đang mang thai) đến chùa Ứng Tâm để xin ngủ nhờ thì sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng: “Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến”. Truyền thuyết đã diễn tả cảnh Lý Công Uẩn ra đời như sau: Một đêm khu tam quan của chùa sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan toả. Nhà sư cùng bà hộ chùa ra xem thì thấy người đàn bà ấy đã sinh một con trai hai bàn tay có bốn chữ son “Sơn hà xã tắc”.
Lớn lên, Lý Công Uẩn rất khôi ngô tuấn tú, lại thêm thông minh, dần dần biểu lộ một tính cách, chí khí đặc biệt. Có nhiều truyền thuyết về ông rất kỳ bí, ví như: Có một lần, nhà sư họ Lý sai Công Uẩn đem oản đặt lên bàn thờ cúng Phật. Cậu bé đã khoét oản ăn trước. Không hiểu sao nhà sư lại phát hiện được, bèn trách mắng Công Uẩn. Cậu tức lắm, cho là bức tượng Hộ pháp nhìn thấy đã mách sư, bèn đánh tượng ba cái tát, rồi lấy son viết mấy chữ “Đồ tam thiên lí” (Đày ba ngàn dặm) vào sau lưng tượng. Đêm đó sư Khánh Vân nằm mơ, thấy Hộ pháp buồn rầu, đến ngỏ lời từ biệt: “Hoàng đế đã phạt đày tôi đi xa, xin chào ông ở lại”. Sáng sớm, sư Khánh Vân lên chùa xem hư thực thế nào, thì quả thấy sau lưng bức tượng Hộ pháp có dòng chữ viết kết án như ông đã nằm mơ. Nhà sư bèn sai mấy chú tiểu múc nước rửa đi, nhưng chùi thế nào cũng không sạch. Khi cho gọi Lý Công Uẩn đến rửa, thì cậu chỉ lấy tay xoa xoa thì chữ đã biến mất!Ngày càng lớn thì chí khí và tầm hiểu biết của Công Uẩn ngày càng nâng cao, học một biết mười, rất giỏi giang, nhưng vẫn tinh nghịch như một đứa trẻ.
Tương truyền một lần, Công Uẩn bị sư Vạn Hạnh phạt, trói suốt đêm nơi cửa chùa. Bị muỗi đốt không ngủ được, Công Uẩn tức cảnh đọc bốn câu thơ đầy khẩu khí, bằng tiếng Hán, dịch Nôm ra như sau:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Cùng trăng thanh thả giấc thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng!”
(Lê Văn Uông dịch)
Sư Vạn Hạnh nghe được tự nhủ thầm: “Đứa bé này không phải người thường, sau lớn lên ắt có thể giải nguy, gỡ rối, làm bậc minh chúa trong thiên hạ đây!”, bèn hết sức chăm sóc dạy bảo(2).
Công Uẩn có tính không màng của cải vật chất, chỉ chú tâm vào việc tìm hiểu chữ nghĩa của thánh hiền. Nhưng khi học cậu không câu nệ vào kinh sử và nhờ sáng dạ nên rất chóng hiểu, biết dùng những điều học được để suy ngẫm việc đời.
Nhờ có học vấn, tài cán và với chí lớn tỏ rõ khác thường nên Công Uẩn sớm được tiến cử vào triều làm quan nhà Tiền Lê từ đời vua Lê Đại Hành (941 – 1005), đến đời Lê Ngọa Triều (986 – 1009) tới chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, là một chức quan võ cao cấp, chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô.
Khi vua Lê Đại Hành đã mất, các vua sau này chơi bời trụy lạc, tranh giành ngôi vị chém giết lẫn nhau. Nhân dân trong nước đã tỏ ra quá chán ghét. Nhưng mãi đến năm 1010, khi Lê Long Đĩnh mất, lúc này Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kế tự Long Đĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn đang là chỉ huy quân túc vệ trong coi cung cấm với tài học vấn uyên thâm và nhiều tài cán nên được quan Chi hậu nhà Tiền Lê là Đào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn lên ngôi vua. Và đó chính là Lý Thái Tổ, vị vua khai sinh ra triều Lý. Vua trị vì 19 năm thì mất, mất năm Mậu Thìn (1028), thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế(3).
Tầm nhìn xa, trông rộng
Lên ngôi vua, công việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là dời đô. Mặc dù đất Hoa Lư vốn là kinh đô của nước ta hơn bốn chục năm trời suốt từ thời Đinh (968 – 979) đến thời Tiền Lê (980 – 1009)(4) nhưng Lý Thái Tổ nhận thấy vùng đất này rất chật hẹp không đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước thời bấy giờ, nên đã quyết định chọn vùng đất khác là Đại La, một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự… làm thủ đô cả nước. Trong chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã lập luận một cách xác đáng như sau: “… Đại La… ở chính giữa bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, vị trí chính phương Đông, Tây, Nam, Bắc – tiện cho chiều hướng thuận nghịch của núi sông. Ở đó, địa thế vừa rộng, vừa phẳng, vùng đất vừa cao vừa sáng, dân cư không lo nạn lụt lội đắm đuối, muôn vật cũng rất phong phú tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta duy đó là thắng địa, thật là nơi then chốt của bốn phương hội lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời…” (trích dịch theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư). Vị vua khởi xướng triều đại nhà Lý đã chọn cho nước ta một thủ đô mới, điều đó đã thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của ông rất đúng đắn.
Tháng 7 năm năm 1010 vua khởi sự dời đô từ thành Hoa Lư dời đô ra phủ thành Đại La. Tương truyền khi thuyền vua đang tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự. Vua nhân đó gọi Đại La là Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên”, đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức. Từ đó, biết bao thế hệ cha ông ta đã gắn bó máu thịt để xây dựng, bảo vệ, mở mang liên tục vùng đất Thăng Long thiêng liêng ấy. Trãi qua thăng trầm của lịch sử, ngày nay Thăng Long đã trở thành thủ đô Hà Nội, trái tim của đất nước, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Trong những năm trị vị, vua đã chỉnh đốn việc cai trị chia nước làm 24 lộ, gọi Hoang Châu và Ái Châu là trại, các thế lực cát cứ địa phương bị dẹp yên. Nhà vua đặc biệt chăm lo đời sống chính trị, tư tưởng, kinh tế và xã hội cho nhân dân, được chính sử đánh giá là “khoan thứ, nhân từ, tinh tế, hoà nhã, có lượng đế vương”(5). Lý Thái Tổ đã xây dựng một nền móng vững chắc cho vương triều của mình, đem lại cho nhân dân cuộc sống an nhàn và thịnh vượng.
Lý Công Uẩn, với tất cả trí thông minh, chí khí lớn, sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của mình thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt về dựng, giữ nước và để lại những dấu ấn đẹp đẽ trong kí ức và tình cảm của nhân dân.
Viết đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp về đoạn thứ 2 của bài chiếu rời đô
giúp mik với ạ
THAM KHẢO :
Trong bài "Chiếu dời đô", Lý Công Uẩn với khát vọng dời đô, mong muốn đất nước phát triển trong thời bình không còn giặc giã qua đó thể hiện ý chí độc lập tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt ta. Để có thể thuyết phục khát vọng dời đô của mình, đầu tiên tác giả nêu lên dẫn chứng về các làn dời đô thời Tam đại của Trung Quốc, rồi qua đó phê phán hai triều Đinh, Lê khinh thường mệnh trời, theo ý riêng mình mà cứ đóng đô ở Hoa Lư. Sau đó, tác giả còn đưa ra những tác hại của việc ko chịu dời đô của hai nhà Đinh, Lê và tỏ lòng đau xót : "Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi". Tiếp theo, nhà vua đưa ra những thuận lợi của Đại La : "Ở vào nơi trung tâm trời đất ; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây ; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rồng mà bằng ; đất cao mà thoáng". Thậm chí ông còn tỏ vẻ quan tâm đến người dân : "Dân chúng khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Kết thúc bài văn bằng một câu hỏi thân tình "Các khanh nghĩ thế nào?", nhà vua đã khiến bài chiếu này trở thành một văn bản bàn luận, hỏi ý kiến của quần thần chứ không còn là một mệnh lệnh nữa, điều đó phần nào đã xích nhà vua lại gần quần thần, khiến cho văn bản lại càng tăng tính thuyết phục hơn. Và quả nhiên, việc dời đô đã là một việc làm đúng đắn, không chỉ là trong lịch sử, mà sau này, Thăng Long Hà Nội vẫn còn là thủ đô của Việt Nam.
TK:
Chiếu dời đô không chỉ cho thấy tài năng, tầm nhìn xa rộng của người trị vì đất nước mà còn phản ánh được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt. Mở đầu bài chiếu, nhà vua đã nêu lên mục đích của việc dời đô thông qua những minh chứng rõ ràng, thiết thực từ sử sách bên Trung Quốc rồi đến chuyện nước nhà, thời nhà Đinh, nhà Lê “ theo ý riêng mình, khinh thường, mệnh trời... ” Qua đó, tác giả cho thấy vận nước muốn được lâu dài, phát triển phồn thịnh cần xem xét các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa. Nhà vua cũng bày tỏ tâm trạng “đau xót” khi nghĩ về những thăng trầm của vận nước trải qua. Đồng thời Người khẳng định, việc chuyển dời cũng vì lợi ích của muôn dân, cho thấy tấm lòng yêu nước thương dân, luôn lo nghĩ cho sự phát triển phồn thịnh của dân tộc. Phần thứ hai của bài chiếu đã thể hiện tầm nhìn chiến lược cùa nhà vua về mảnh đất Đại La – nơi sẽ dời đô đến. Đó là mảnh đất hội tụ đầy đủ những thuận lợi về địa lí, văn hóa, nhân văn…Câu văn súc tích, giàu hình ảnh và biểu cảm đã gợi lên trước mắt người đọc về mảnh đất là nơi “thắng địa”, “chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”. Ở nơi ấy muôn dân sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Khát vọng của vua cũng là khát vọng của nhân dân muôn đời. Và ở phần kết, nhà vua đã hỏi ý kiến của các quần thần về việc dời đô. Câu hỏi ấy gợi nhắc ta đến hội nghị DIêm Hồng năm xưa khi quyết định về vận nước, tất cả đều đồng lòng chung sức, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc. Đọan kết chỉ với 14 chữ ngắn ngủi nhưng nhà vua đã thể hiện tinh thần dân chủ vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt vào những giờ phút quyết định của lịch sử. Qua đó, ta thêm cảm phục một con người tài trí mà đức độ, kín đáo. Như vậy, Chiếu dời đô với lời lẽ ngắn gọn, trang trọng, mang khẩu khí của bậc đế vương, có thể coi là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc trong kho tàng văn học Việt Nam. Thế hệ con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi tự hào về trang lịch sử vàng của dân tộc được hun đúc từ ngàn đời.
cho đoạn văn sau : huống gì thành Đại La .....đế vương muôn đời .
Câu 1: nêu nội dung của đoạn văn.
Câu 2: giải thích "thắng địa" là gì.
Câu 3: câu "thật là chốn ... muôn đời" thuộc kiểu câu j, thực hiện hành động nói nào?
TK: Câu 1 Nội dung: Nêu những thuận lợi của địa thế thành Đại La và khẳng định đó là nơi tốt nhất để đóng đô
câu 2: Thắng địa: là nơi có phong cảnh đẹp, vị trí thuận lợi
1.Nội sung:Nêu những điểm thuận lợi của thành Đại La và khẳng định đây sẽ là kinh đô
2.Thắng địa:là nơi có vị trí thuận lợi,đất đẹp
3.Trần thuật.Hành động nói:Trình bày