Sinh học 7

pham huu huy

triệu chứng , nguyên nhân và cách phòng tránh bệnh suy tim

Phan Thùy Linh
26 tháng 2 2017 lúc 15:35
Nguyên nhân suy tim trái:

– Tăng huyết áp động mạch

– Bệnh van tim: Hở van 2 lá, hở hoặc hẹp van động mạch chủ đơn thuần hoặc phối hợp.

– Viêm cơ tim, nhi máu cơ tim.

– Rối loạn nhịp tim

– Bệnh tim bẩm sinh.

Nguyên nhân suy tim phải:

– Bệnh phổi mãn tính (hen phế quản, viêm phế quản mạn, giãn phế nang, giãn phế quản, xơ phổi), nhồi máu phổi, tăng áp lực động mạch phổi tiên phát.

– Gù vẹo cột sống và dị dạng lồng ngực.

– Hẹp van 2 lá.

– Bệnh tim bẩm sinh: Hẹp động mạch phổi, thông liên nhĩ, thông liên thất.

Nguyên nhân suy tim toàn bộ

– Suy tim trái phát triển thành suy tim toàn bộ.

– Viêm tim toàn bộ do thấp tim, viêm cơ tim

– Bệnh cơ tim giãn.

– Nguyên nhân khác: Cường giáp trạng, thiếu vitamin B1, thiếu máu nặng, dò động mạch-tĩnh mạch.

Biện pháp

Chế độ ăn và sinh hoạt

– Chế độ ăn hạn chế muối<2g/ngày.

– Suy tim nặng: hạn chế hoạt động thể lực, cần thiết nghỉ ngơi tại giường, thở oxy.

– Loại bỏ yếu tố nguy cơ: rượu, thuốc lá, cafe, giảm cân ở người béo, tránh stress.

Sử dụng thuộc điều trị suy tim :

– Tăng sức co bóp cơ tim

– Tăng đào thải muối và nước

– Giảm gánh và hậu gánh: thuốc ức chế men chuyển (làm giãn mạch – giảm hậu gánh); hydrazin (làm giãn cơ trơn động mạch-giảm hậu gánh)

– Thuốc chống đông máu: Heparin, kháng vitamin K

Bình luận (1)
Lê Dung
26 tháng 2 2017 lúc 15:54

Khó thở là dấu hiệu quan trọng nhất

Khó thở ở đây có nghĩa là người bệnh phải khó nhọc hơn bình thường mới thở được. Có người dùng những từ khác chỉ triệu chứng khó thở như: hụt hơi, ngắn hơi, thở gấp, tức thở. Người ngoài nhìn thấy cũng thấy bệnh nhân thở nhanh hơn, nông hơn và có vẻ khó nhọc hơn.

Căn cứ vào mức độ khó thở, xảy ra khi gắng sức ít hay nhiều, ngày nay các nhà chuyên khoa Việt Nam cũng như trên thế giới chia ra 4 độ suy tim:

Suy tim độ I: Người bệnh chưa thấy triệu chứng gì của suy tim dù lúc nghỉ ngơi hay khi gắng sức, sinh hoạt hàng ngày vẫn bình thường. Có thể coi là suy tim tiềm ẩn.

Suy tim độ II: Sih hoạt hàng ngày đã bị ảnh hưởng nhẹ, nghỉ ngơi thì không có triệu chứng gì, nhưng hoạt động thường nhật đã thấy khó thở. Có thể gọi là suy tim nhẹ.

Suy tim độ III: Sinh hoạt bị ảnh hưởng mức độ trung bình, nghĩa là nghỉ ngơi vẫn không có triệu chứng gì, nhưng chỉ hoạt động nhẹ hơn thường nhật đã thấy khó thở rồi. Đây là suy tim trung bình.

Suy tim độ IV: Sinh hoạt bị ảnh hưởng nhiều, cả khi nghỉ ngơi cũng thấy khó thở, chỉ làm được những việc nhẹ.

Phòng ngừa

Muốn đề phòng suy tim, trước tiên cần phải ngăn chặn những bệnh gây suy tim.

Đề phòng các bệnh tim bẩm sinh, với trình độ khoa học hiện nay vẫn còn rất khó. Người ta chỉ mới đề ra được một số biện pháp như khi có thai, nhất là trong 3 tháng đầu, phải tránh một số tác nhân có thể gây ra dị tật ở thai nhi như thuốc lá, rượu, một số virus như cúm, sởi… Cũng nên nhấn mạnh rằng nhiều thuốc có thể gây hại cho bào thai, từ các thuốc an thần như bacbituric, phenothiazine, đến các thuốc chữa khớp như indomethacin, chữa lao như isoniazid, có một số vitamin như vitamin A, vitamin D và cả một số kháng sinh nữa. Đề phòng những bệnh van tim, cần làm sạch môi trường, nhà ở phải thoáng đãng, khô ráo, ít người ở chung. Khi trẻ bị viêm họng, cần đến bác sĩ xem có cần cho penicillin không? Sau đợt thấp khớp đầu tiên, dù có biến chứng tim hay không cũng cần theo lời khuyên của bác sĩ về việc tim penicillin chậm mỗi tháng một lần cho đến khi trưởng thành hoặc lâu hơn. Và khi đã rõ bệnh van tim rồi thì phải xem việc “can thiệp” như trong van, sửa van, thay van… đây là kỹ thuật mà các thành phố lớn đã có thể làm được. Những bệnh cơ tim, bệnh màng ngoài tim, bệnh phổi mạn tính, hoặc nhiễm độc giáp, suy giáp, thiếu máu… đều phải được điều trị đến nơi đến chốn mới ngăn chặn được khỏi tiến triển đến suy tim. Có nhiều nguyên nhân gây nên suy tim như: - Nhồi máu cơ tim cũ: khi động mạch vành cung cấp máu nuôi dưỡng cơ tim có một chỗ bị tắc gây nhồi máu, một số vùng cơ tim chết đi, thành sẹo làm giảm khả năng co bóp của quả tim.

- Tăng huyết áp mạn tính làm quả tim phải làm việc quá sức trong một thời gian dài do phải bóp với một lực mạnh hơn để thắng được sức cản lớn trong lng mạch (do tăng huyết áp), lâu dần sẽ làm tim bị suy.

- Bệnh van tim gây hở hoặc hẹp van tim, khi đó hoặc tim phải bóp nhiều hơn (do hở van tim) hoặc bóp mạnh hơn (do hẹp van tim), lâu ngày cũng sẽ gây suy tim.

- Bệnh tim bẩm sinh

- Bệnh cơ tim do rượu: uống quá nhiều rượu làm co bóp cơ tim bị yếu đi.

- Viêm cơ tim nhất là viêm cơ tim do siêu vi trùng

- Do rối loạn nhịp tim nhanh kéo dài, mạn tính gây suy tim.

- Suy tim cũng hay gặp ở bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, dù không phải đái tháo đường là nguyên nhân gây bệnh duy nhất

- Suy tim còn gặp ở bệnh nhân uống thuốc hoá chất để điều trị ung thư hoặc một số loại thuốc đặc biệt khác

40% không thể tìm được một nguyên nhân cụ thể nào gây suy tim.
Bình luận (0)
Nguyễn Việt Hùng
26 tháng 2 2017 lúc 19:27

* Triệu chứng của bệnh suy tim là

Triệu chứng ở tim:

+Tiếng tim nhỏ, mờ.

+Nhịp tim nhanh.

+Có thể thấy tiếng ngựa phi trái.

+Tiếng thổi tâm thu nhẹ ở mỏm, ít lan, đây là tiếng thổi do hở van hai lá chức năng vì thất trái to ra.

-Triệu chứng ở mạch:

+Mạch nhỏ khó bắt.

+Huyết áp tụt xuống, đặc biệt là số tối đa.

-Triệu chứng x quang:

+Tim trái to ra, biểu hiện bởi cung dưới trái phình, mỏm tim chúc xuống.

+Phổi mờ do ứ máu nhiều, nhất là vùng rốn phổi.

-Triệu chứng điện tâm đồ: Trục điện chuyên sang trái.

+Hình ảnh R cao ở D, S sâu ở D3 (R1S3).

+QRS giãn rộng, T đảo ngược.

* Nguyên nhân gây bệnh suy tim là

+Những bệnh tim bẩm sinh mắc từ khi còn nằm trong bụng mẹ, như thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch,v.v..

+Những bệnh van tim, do thấp khớp cấp để lại hậu quả. Hàng đầu là hẹp hai lá, rồi đến hở hai lá, hở van chủ, hẹp van chủ. Những bệnh này thường mắc từ tuổi đi học, 7-16 tuổi, nhưng phần nhiều lớn lên mới được chẩn đoán.

+ Những bệnh tim do thiếu máu cục bộ, như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, một số loạn nhịp hoặc suy tim. Đây là bệnh của những người đứng tuổi 40-50 tuổi trở lên.

+ Những viêm cơ tim, do nhiễm trùng, những bệnh cơ tim nguyên nhân chưa rõ như bệnh cơ tim giãn, bệnh cơ tim phì đại, tuổi nào cũng có thể mắc.

+ Những bệnh màng ngoài tim như tràn dịch, viêm co thắt màng ngoài tim, phần lớn do nhiễm trùng các loại, nên không phụ thuộc vào tuổi.

+ Những rối loạn nhịp tim như loạn nhịp hoàn toàn (còn gọi là rung nhĩ), tim quá chậm hoặc quá nhanh, cũng có thể gây suy tim.

Ngoài những bệnh của quả tim kể trên, một số bệnh của mạch máu chủ yếu là của động mạch, cũng có thể đưa đến suy tim. Quan trọng nhất là tăng huyết áp; hẹp động mạch vành đã được coi là thiếu máu cục bộ cơ tim nói ở trên rồi. Hẹp động mạch thận cũng có thể dẫn đến suy tim vì nó cũng làm tăng huyết áp. Những bệnh của phế quản hoặc bệnh phổi mạn tính, lâu ngày có thể đưa đến suy tim, gọi là tim phổi mạn.

Cuối cùng một số bệnh toàn thân cũng có khi dẫn đến suy tim, điển hình là suy tim do tuyến giáp hoạt động thái quá (nhiễm độc giáp) hoặc kém quá (suy giáp), suy tim do thiếu máu bất kỳ nguyên nhân nào. Một số nhiễm độc hoặc suy dinh dưỡng, rối loạn điện giải cũng đôi khi gây ra suy tim.

Bình luận (1)
Nguyễn Việt Hùng
26 tháng 2 2017 lúc 19:28

* cách phòng tránh bệnh suy tim

1. Ðề phòng các bệnh tim bẩm sinh, với trình độ khoa học hiện nay, vẫn còn rất khó. Người ta chỉ mới đề ra được một số biện pháp như khi có thai, nhất là trong 3 tháng đầu, phải tránh một số tác nhân có thể gây ra dị tật ở thai nhi như thuốc lá, rượu, một số virus như cúm, sởi... Cũng nên nhấn mạnh rằng nhiều thuốc có thể gây hại cho bào thai, từ các thuốc an thần như bacbituric, phenothiazin, đến các thuốc chữa 'khớp như indomethacin, chữa lao như isoniazid, có một số vitamim như vitamin A, vitamin D và cả một số kháng sinh nữa.
2. Ðề phòng những bệnh van tim, cần làm sạch môi trường, nhà ở phải thoáng đãng, khô ráo, ít người ở chung. Khi trẻ bị viêm họng, cần đến bác sĩ xem có cần cho penicillin không? Sau đợt thấp khớp đầu tiên, dù có biến chứng tim hay không, cũng cần theo lời khuyên của bác sĩ về việc tiêm penicillin chậm mỗi tháng một lần cho đến khi trưởng thành hoặc lâu hơn. Và khi đã rõ bệnh van tim rồi, thì phải xem việc "can thiệp" như trong van, sửa van, thay van... đây là những kỹ thuật các thành phố lớn đã có thể làm được.
3. Những bệnh cơ tim, bệnh màng ngoài tim, bệnh phổi mạn tính, hoặc nhiễm độc giáp, suy giáp, thiếu máu...đều phải được điều trị đến nơi đến chốn mới ngăn chặn được khỏi tiến triển đến suy tim.
Nhưng nói chung, bàn đến phòng bệnh tim mạch là người ta bàn nhiều lá nhất đến các biện pháp đề phòng tăng huyết áp và các bệnh tim thiếu máu cục bộ cụ thể là đề phòng vữa xơ động mạch. Hiện nay sang thiên niên kỷ thứ ba, xơ vữa động mạch vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới.
Thống kê năm 1990 về tử vong cho thấy bệnh tim thiếu máu cục bộ đứng số 1 và tai biến mạch não số 2, cả hai đều do xơ vữa động mách; trong khi lao phổi đứng thứ 7, ung thư đường thở thứ 10 trong số 30 nhóm bệnh được khảo sát.
Cũng thống kê trên dự kiến năm 2020; các bệnh nhiễm trùng sẽ giảm đi nhiều và các bệnh ung thư tăng lên nhiều, nhưng tim thiếu máu cục bộ và tai biến mạch não mà người ta gọi chung là bệnh tim mạch vẫn cứ giữ nguyên vị trí số 1 và số 2 như 30 năm trước? Cho nên đề phòng suy tim, điều chính yếu là đề phòng xơ vữa động mạch, kẻ gây ra cả bệnh tim thiếu máu cục bộ lẫn tai biến mạch não. Theo lời khuyên của Tổ chức y tế thế giới, đề phòng vữa xơ động mạch ở các nước đang phát triển như Việt Nam chẳng hạn, nên tập trung vào 4 nội dung giáo dục sức khỏe sau:

1. Cải tiến cách ăn uống: bớt mỡ, bớt muối, bớt calo.

2. Chống hút thuốc lá.

3. Phòng và chữa tăng huyết áp.

4. Tăng hoạt động thể lực và chứng béo.\

chúc bạn học tốt

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Ngô Châu Bảo Oanh
Xem chi tiết
Duyên Nghiêm
Xem chi tiết
Bảo Ngọc cute
Xem chi tiết
Lê Xuân Mai
Xem chi tiết
pham huu huy
Xem chi tiết
Hot girl Quỳnh Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Anh Duy
Xem chi tiết
/happdanh Danhkisayhello
Xem chi tiết
Kiên NT
Xem chi tiết