Hướng dẫn soạn bài Thuế máu - trích

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Thanh Huyền

soạn văn baen thuế máu

m.n giúp e na!!!

Nguyễn Hà Linh Nhi
8 tháng 3 2017 lúc 23:02

Soạn bài Thuế Máu Đọc – hiểu văn bản Câu 1. Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả. - Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công vô lí. Song có lẽ một trong các thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất là bị bóc lộ xương máu, mạng sống. ‘Thuế Máu’ là cách gọi của Nguyễn Ái Quốc. Cái tên ‘thuế máu’ gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tớm của chính quyền thực dân. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ ‘Chiến tranh và người bản xứ’ đến ‘Chế độ lính tình nguyện’ rồi chỉ ra ‘Kết qua của sự hi sinh’, các phần nối tiếp như thế… chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc. Câu 2. a. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở thời gian trước với khi cuộc chiến xảy ra. - Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật. - Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý. Điều ấy nói lên thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh (các từ ngữ, các hình ảnh trong lời lẽ của bọn thực dân cầm quyền được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý, giọng điệu trào phúng). b. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. - Phải đột ngột xa lìa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem mạng sống mà đánh đổi lấy những vinh dự hão huyền. - Bị biến thành vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của những kẻ cầm quyền. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên các bãi chiến trường ác liệt, xa xôi. Giọng điệu đoạn này vừa giễu cợt vừa thật xót xa. - Tuy không trực tiếp ra mặt trận nhưng rất nhiều người dân thuộc địa làm công việc chế tạo vũ khí, phục vụ chiến tranh ở hậu phương cũng chịu bệnh tật, cái chết đau đớn. - Tác giả đã nêu ra một con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất. Câu 3. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân ? Người dân thuộc địa có thực ‘tình nguyện’ hiến dâng xương máy như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không ? - Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính. - Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu. - Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối. - Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn. - Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra sự thực : người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính. Câu 4. Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh ? Cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi bóc lột hết ‘thuế máu’ ? - Khi chiến tranh chấm hứ thì các lời tuyên bố ‘tình tứ’ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người từng hi sinh bao xương máu, từng được tâng bốc trước đây mặc nhiên trở lại ‘giống người hèn hạ’. - Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. - Bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân lại được bộc lộ trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bi như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về với vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bốc lột trắng trợn hết thuế máu. Câu 5. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả. a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian : trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động. b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau : - Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo. + Trước hết, những hình ảnh được xây dưng đều có tính xác thực phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản chất hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi. + Vừa xác thực, các hình ảnh trong tác phẩm vừa manh tính chất châm biếm, trào phúc sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa. + Gắn với hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm : ‘con yêu’, ‘bạn hiền’, ‘chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do’, ‘lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế’, ‘đem xương mình chạm nên những chiếc gậy’, ‘vật liệu biết nói’. - Giọng điệu trào phúng đặc sắc : + Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai (chú ý đùng một cái’, ‘ấy thế mà’). + Nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản thân lừa bịp trơ trẽn. + Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác (chú ý đoạn cuối phần II). Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Câu 6. Gợi ý nhận xét về yếu tố tự sự và yếu tốt biểu cảm trong đoạn trích. - Tác giả sử dụng có hiệu quả biện pháp nghệ thuậ kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên khôi chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đã kích. - Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu tượng cao. Từ đó toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của chính quền thực dân. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu của tác phẩm, người nhận ra một lòng căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, niềm xót xa thương cảm cho thân phận người nô lệ bị lợi dụng, bị bóc lột ‘thuế máu’. - Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa. Thự ra, trong bản thân yếu tố này đã bao hào, đã chứa đựng yếu tố kia và chúng được thể hiện qua nhau.

Shizuka
9 tháng 3 2017 lúc 12:13

Phần lý thuyết trong HOC24 có mà

Shizuka
9 tháng 3 2017 lúc 12:24

Soạn bài Thuế Máu Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả. - Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công vô lí. Song có lẽ một trong các thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất là bị bóc lộ xương máu, mạng sống. ‘Thuế Máu’ là cách gọi của Nguyễn Ái Quốc. Cái tên ‘thuế máu’ gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tớm của chính quyền thực dân. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ ‘Chiến tranh và người bản xứ’ đến ‘Chế độ lính tình nguyện’ rồi chỉ ra ‘Kết qua của sự hi sinh’, các phần nối tiếp như thế… chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.

Câu 2. a. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở thời gian trước với khi cuộc chiến xảy ra. - Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật. - Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý. Điều ấy nói lên thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh (các từ ngữ, các hình ảnh trong lời lẽ của bọn thực dân cầm quyền được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý, giọng điệu trào phúng).

b. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. - Phải đột ngột xa lìa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem mạng sống mà đánh đổi lấy những vinh dự hão huyền. - Bị biến thành vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của những kẻ cầm quyền. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên các bãi chiến trường ác liệt, xa xôi. Giọng điệu đoạn này vừa giễu cợt vừa thật xót xa. - Tuy không trực tiếp ra mặt trận nhưng rất nhiều người dân thuộc địa làm công việc chế tạo vũ khí, phục vụ chiến tranh ở hậu phương cũng chịu bệnh tật, cái chết đau đớn. - Tác giả đã nêu ra một con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất.

Câu 3. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân ? Người dân thuộc địa có thực ‘tình nguyện’ hiến dâng xương máy như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không ? - Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính. - Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu. - Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối. - Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn. - Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra sự thực : người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.

Câu 4. Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh ? Cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi bóc lột hết ‘thuế máu’ ? - Khi chiến tranh chấm hứ thì các lời tuyên bố ‘tình tứ’ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người từng hi sinh bao xương máu, từng được tâng bốc trước đây mặc nhiên trở lại ‘giống người hèn hạ’. - Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. - Bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân lại được bộc lộ trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bi như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về với vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bốc lột trắng trợn hết thuế máu.

Câu 5. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả. a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian : trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động. b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau : - Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo. + Trước hết, những hình ảnh được xây dưng đều có tính xác thực phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản chất hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi. + Vừa xác thực, các hình ảnh trong tác phẩm vừa manh tính chất châm biếm, trào phúc sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa. + Gắn với hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm : ‘con yêu’, ‘bạn hiền’, ‘chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do’, ‘lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế’, ‘đem xương mình chạm nên những chiếc gậy’, ‘vật liệu biết nói’. - Giọng điệu trào phúng đặc sắc : + Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai (chú ý đùng một cái’, ‘ấy thế mà’). + Nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản thân lừa bịp trơ trẽn. + Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác (chú ý đoạn cuối phần II). Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.

Câu 6. Gợi ý nhận xét về yếu tố tự sự và yếu tốt biểu cảm trong đoạn trích. - Tác giả sử dụng có hiệu quả biện pháp nghệ thuậ kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên khôi chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đã kích. - Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu tượng cao. Từ đó toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của chính quền thực dân. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu của tác phẩm, người nhận ra một lòng căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, niềm xót xa thương cảm cho thân phận người nô lệ bị lợi dụng, bị bóc lột ‘thuế máu’. - Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa. Thự ra, trong bản thân yếu tố này đã bao hào, đã chứa đựng yếu tố kia và chúng được thể hiện qua nhau.

Phạm Thu Thủy
6 tháng 3 2018 lúc 19:07

Thuế Máu
(Trích Bản án chế độ thực dân Pháp)
(Nguyễn Ái Quốc)

- Hiểu được bản chất độc ác, bộ mặt giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp qua việc dùng người dân các xứ thuộc địa làm vật hi sinh cho quyền lợi của chúng trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình dung ra số phận bi thảm của những người bị bóc lột "thuế máu" theo trình tự miêu tả của tác giả.
- Thấy rõ ngòi bút lập luận sắc bén, nghệ thuật trào phúng sâu cay của Nguyễn ái Quốc trong văn chính luận.
I. Tìm hiểu chung
1. Hoàn cảnh sáng tác Bản án chế độ thực dân Pháp.
- Hai thập niên đầu thế kỉ XX, các nước đế quốc thi nhau xâm lược nhiều nơi trên thế giới nhằm vơ vét của cải và nhân lực khiến đời sống của nhân dân nô lệ ở các xứ thuộc địa vô cùng khổ nhục. Làn sóng cách mạng dâng lên mạnh mẽ ở khắp nơi.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các nước đế quốc tranh giành nhau quyền lợi, đẩy nhân dân lao động ở nhiều nơi vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.
- Bản án chế độ thực dân Pháp đã ra đời trong bối cảnh đó.
2. Nội dung, giá trị tác phẩm
- Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12 chương, mỗi chương viết về một chủ đề, tất cả hợp thành một bản cáo trạng đanh thép về tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân thuộc địa.
- Tác phẩm thể hiện lòng căm thù tột độ các thế lực bạo tàn; tình thương yêu đến nhỏ máu đối với những kiếp người nô lệ nghèo khổ; ý chí chiến đấu giành độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa của Nguyễn ái Quốc.
- Tác phẩm thể hiện nghệ thuật trào phúng, đả kích hết sức sắc sảo, đa dạng của tác giả.
3. Vị trí đoạn trích
- Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp. ở chương này, tác giả đã vạch trần thủ đoạn tàn bạo lợi dụng xương máu những con người nghèo khổ của chính quyền thực dân Pháp.
4. Đọc đoạn trích và giải nghĩa từ khó
- Đọc với giọng mỉa mai, châm biếm, đả kích khi vạch trần thủ đoạn của thực dân và giọng xót xa, thương cảm khi phơi bày nỗi thống khổ của người dân nô lệ.
- Giải nghĩa từ khó (theo SGK).
5. Bố cục
- Có thể phân tích theo ba phần và dùng ngay cách đặt tên từng phần của tác giả.
II. Phân tích
1. Chiến tranh và người bản xứ: Bộ mặt của bọn thực dân và số phận của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.
* Bộ mặt của chính quyền thực dân:
- Khi chiến tranh bùng nổ, người dân thuộc địa được các nhà cai trị gọi là những đứa "con yêu, những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Để đạt được tham vọng đầy tội ác, chúng đã không từ thủ đoạn bỉ ổi là hạ mình tâng bốc, vỗ về, phong tặng cho người dân thuộc địa những danh hiệu cao quý để dễ bề biến họ thành vật hi sinh bảo vệ quyền lực và lợi ích của chúng.
- Tác giả đã lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa hèn hạ đó bằng việc đối lập thái độ của chúng đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm trước và sau cuộc chiến tranh phi nghĩa mà tác giả mỉa mai là "cuộc chiến tranh vui tươi": Trước chiến tranh, họ bị nhà cầm quyền coi là giống người hạ đẳng, bẩn thỉu, bị đối xử đánh đập như những con vật ghê tởm. Chiến tranh bùng nổ, họ lập tức biến thành những anh hùng của "nước mẹ". Đó là thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân.
- Bằng giọng điệu mỉa mai, đả kích sâu cay, tác giả đã lấy lại chính các từ ngữ, hình ảnh trong lời lẽ của bọn thực dân để lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng như những đòn gậy ông đập lưng ông một cách hiệu quả.
* Số phận của người dân thuộc địa:
- Để vòng nguyệt quế và chiếc gậy của các quan toàn quyền lớn, bé... được tươi đẹp và vững chắc, người dân thuộc địa đã bị biến thành một thứ thuế máu vô cùng dã man và thương tâm. Để bảo vệ cho thứ "công lí và tự do" mà họ không hề được hưởng, họ đã phải phơi thây trên các bãi chiến trường: kẻ thì vùi xác nơi "đáy biển", người thì bỏ thây ở "những miền hoang vu", kẻ thì chôn thân trong các bãi lầy, người thì kiệt sức trong các xưởng thuốc súng khạc ra từng miếng phổi... Tổng cộng, tám vạn người bản xứ đã bỏ mạng.
- Bằng giọng điệu xót xa, thương cảm, tác giả đã phơi bày số phận thảm thương của những người dân thuộc địa, qua đó càng làm rõ bộ mặt lừa bịp bỉ ổi của bọn thực dân "cá mập". Giọng giễu cợt của tác giả luôn nhằm thẳng vào sự che đậy giả dối bản chất thâm độc của chúng.
2. Chế độ lính tình nguyện: Các thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân.
- Trong khi chính quyền thực dân rêu rao về việc tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa thì sự thật "chế độ lính tình nguyện" đã được tác giả miêu tả một cách sống động:
+ Nhà cầm quyền phải lùng ráp, săn bắt, cưỡng bức thứ vật liệu biết nói đi lính.
+ Các quan được dùng bất cứ mọi thủ đoạn, miễn là phải bắt đủ người...
+ Các quan tranh thủ chuyện bắt lính để xoay xở kiếm tiền: hoặc đi lính, hoặc xì tiền ra.
+ Người bị bắt đi lính tìm mọi cách để trốn thoát, tự làm cho mình nhiễm bệnh nặng như bệnh mắt toét chảy mủ ... để trốn lính.
- Như vậy, không hề có sự "tình nguyện" hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Bằng những dẫn chứng hùng hồn, sinh động và giọng điệu giễu cợt, mỉa mai, tác giả đã vạch trần các thủ đoạn bắt lính tàn bạo, trắng trợn, trơ trẽn của chính quyền thực dân Pháp.
3. Kết quả của sự hi sinh: Cách đối xử của chính quyền thực dân đối với những người đi lính sau chiến tranh.
- Sau khi đã đóng xong khoản thuế máu cho chính quyền thực dân, những người đi lính đã được ghi nhớ công lao bằng cách:
+ Họ mặc nhiên trở lại là "giống người bẩn thỉu".
+ Họ bị lột hết của cải, đồ dùng cá nhân và được đối xử như súc vật trên tàu trở về nước.
+ Họ được đón tiếp bằng bài diễn văn yêu nước rằng: "Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi!"
+ Thương binh và vợ con tử sĩ người Pháp được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện, sẵn sàng "đầu độc cả một dân tộc"...
- Bằng những hình ảnh chọn lọc, dẫn chứng sinh động, tác giả đã kịch liệt tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn nhẫn trắng trợn của thực dân Pháp. Đến đây, chúng đã hiện nguyên hình là một lũ "cá mập thực dân": lừa bịp, tàn bạo, bỉ ổi và tráo trở. Thái độ căm phẫn của tác giả càng về sau càng được bộc lộ trực tiếp, mạnh mẽ và mãnh liệt hơn.
4. Nhan đề và kết cấu, bố cục của Thuế máu.
* Nhan đề chương, phần:
- Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công vô lí. Nhưng tàn nhẫn nhất là họ phải đóng cả thuế máu - xương máu và mạng sống của họ. Nhan đề Thuế máu đã thể hiện chính xác, xúc động số phận thảm khốc của người dân thuộc địa và nỗi căm phẫn tột độ của tác giả trước tội ác tày trời của bọn thực dân.
- Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương đã thể hiện quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu người nô lệ của bọn cai trị. Theo đó, thái độ, sự lên án của tác giả càng về sau càng mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
* Kết cấu, bố cục của Thuế máu:
- Ba phần của chương được kết cấu theo trình tự thời gian: trước, trong, sau khi xảy ra và kết thúc chiến tranh. Với cách sắp xếp như vậy, bộ mặt của chính quyền thực dân đã được vạch trần một cách toàn diện và sâu sắc; đối lại, số phận của người dân nô lệ cũng được phơi bày một cách đầy đủ và tột cùng của sự thảm thương.
5. Vài nét về nghệ thuật đặc sắc của Thuế máu.
* Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.
- Lựa chọn và xây dựng được một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tính gợi cảm và sức mạnh tố cáo:
+ Những hình ảnh đó đều có tính xác thực, phản ánh chính xác thực tế. Vì vậy, bản thân chúng đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.
+ Các hình ảnh đó còn mang tính châm biếm, trào phúng sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần đầu, mang đậm tính mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa.
- Ngôn từ cũng mang đậm màu sắc trào phúng, châm biếm: con yêu, bạn hiền, săn bắt vật liệu biết nói, đại bác ngấy thịt đen thịt vàng...
- Giọng điệu trào phúng đặc sắc:
+ Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai.
+ Giọng giễu nhại, gậy ông đập lưng ông....
* Thủ pháp tương phản, đối lập được sử dụng đắc địa.
- Đối lập giữa lời nói với hành động, việc làm của bọn thực dân.
- Đối lập giữa sự hi sinh và kết quả hi sinh của người dân thuộc địa.
- Đối lập giữa bọn thực dân và người dân nô lệ...
6. Yếu tố biểu cảm trong đoạn trích
- Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, thống nhất. Các hình ảnh, sự kiện, con số có tính xác thực được kết hợp với giọng kể mang đậm màu sắc trào phúng làm cho đoạn trích vừa có giá trị hiện thực, vừa mang tính biểu cảm cao. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra khối căm hờn ngùn ngụt đối với kẻ thống trị và niềm xót thương vô hạn trước thân phận người nô lệ của tác giả đằng sau những con số, sự kiện.
- Như vậy, thực ra, trong bản thân yếu tố này đã bao hàm yếu tố kia và chúng kết hợp cùng nhau gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc.
III. Tổng kết
- Thuế máu đã vạch trần bản chất độc ác, tráo trở, bỉ ổi của thực dân Pháp qua việc dùng người dân thuộc địa làm thứ thuế máu dã man và thương tâm trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.
- Nguyễn ái Quốc đã lên án tội ác của chúng bằng ngòi bút lập luận sắc bén, nghệ thuật trào phúng sắc sảo và hệ thống tư liệu, hình ảnh, dẫn chứng xác thực, hùng hồn.


Các câu hỏi tương tự
Nie3008
Xem chi tiết
Thanh Thiên
Xem chi tiết
Bé Bông Nguyễn
Xem chi tiết
rua00 gava
Xem chi tiết
dương Bùi
Xem chi tiết
Trinh Mii
Xem chi tiết
le thi thuy trang
Xem chi tiết
joly trần
Xem chi tiết
phan thị anh thư
Xem chi tiết