Qua ca dao, người bình dân VN đã thể hiện được những tình cảm tha thiết và cao quý của mình. Lấy dẫn chứng từ những bài ca dao đã học và đọc, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
a. Hãy đưa ra luận điểm, luận cứ của bài văn
b. Dựa trên những luận điểm và luận cứ, em hãy lập luận bằng cách viết 1 đoạn văn ngắn cho 1 luận cứ mà em lựa chọn
a)Giải thích các cụm từ trong đề.
Chứng minh luận điểm 1: Ca dao, dân ca thể hiện tình cảm gia đình:
Tình cảm với cha mẹ: công cha như núi thái sơn...
Tình cảm với anh em: anh em như thể tay chân...
Tình cảm vợ chồng: Có chồng chẳng được đi đâu Có con chẳng được đứng lâu nửa giờ
Chứng minh luận điểm 2: Ca dao dân ca thể hiện tình hàng xóm.
a, * Chứng minh(cần lấy dẫn chứng,nêu khái quát nội dung của dẫn chứng ) bao gồm tất cả luận điểm,luận cứ nha
+ Thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương đất nước
-Đó là tình yêu,sự gắn bó với quê hương,nơi mk sinh ra :(d/c)
-Thể hiện niềm tự hào tình cảm say sưa,gay gắt trước vẻ đẹp của quê hg,đất nước : (d/c)
"đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ" -Dù có đi đâu xa tâm hồn của ng việt vẫn luôn hướng về nguồn cội(d/c)
"Dù ai đi ngược về xuôi NHớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba" + CHứa chan tình cảm gia đình,tình yêu thg,con ng - TÌnh cảm con cháu với ông bà tổ tiên ( d/c ) "ngó lên nuột lạt mái nhà Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu " - Tình cảm bố mẹ đối với con cái (d/c ) - Thể hiện tinh tế tình cảm bn bè,tình yêu đôi lứa : (d/c) "Trăng lên khỏi núi mặc trăng Tình ta vs bn khăng khăng một lòng "
Hay "Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một mực khăng khăng đợi thuyền" +Thể hiện tình yêu lao động sản xuất "trên đồng cạn,dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa Hay "Trâu ơi ta bảo trâu này ..... trâu ăn " +Trong xã hội phong kiến thối nát,bất công,người lđ phải chịu nhiều nỗi đắng cay,oan ức,bị áp bức,bóc lột nên ca dao còn là nơi để họ cất tiếng thở than oán thán,lên án xã hội phong kiến thối nát ,bất công . - Ca dao là tiếng hát than thân của những con ng bất hạnh.
"Thương thay thân phận con tằm .. ................... có ng nào nghe " - Qua ca dao ng lđ đã cất lên tiếng nói phản kháng,đầy căm hờn với những kẻ bóc lột,vs xã hội bất công (d/c) "nước non lận đận một mk Thân cò .....................cho gầy cò con" Hay " Cái cò mà quắp cái chai .............. mà nhai cái cò " Hay "COn vua thì lại lm vua ............... lại ra quét chùa " - Ca dao cn thể hiện sự phản kháng ,yếu ớt đầy bất lực của những ng phụ nữ chịu nhiều đắng cay - TRong c/s lao động tiếng cười mỉa mai châm biếm những thói hư tật xấu cx đc thể hiện hết sức sâu cay trog ca dao (d/c)
b, tham khảo
Ca dao không những là tiếng nói của khối óc mà chủ yếu còn là tiếng nói trái tim của nhân dân ta. Thật vậy, trong hàng ngàn năm sống, làm việc và chiến đấu đã qua, cha ông ta đã bày tỏ tình cảm buồn vui của mình trong vô vàn câu ca dao gợi cảm. Qua đó, chúng ta cảm nhận được những tình cảm thiết tha và cao quý của người Việt Nam mình thật rõ rệt.
Đầu tiên, tiếng nói trái tim ấy thể hiện khá sinh động tình yêu quê hương đất nước của cha ông ta. Đó là niềm tự hào, gắn bó khăng khít với bao danh lam thắng cảnh của nơi chôn nhau cắt rốn.
Điều này dễ hiểu. Thời xưa, điều kiện đi lại khó khăn, hiểu biết của mỗi người đều có hạn, ít ai hình dung được hết một dải gấm vóc non sông trải dài từ Bắc chí Nam của đất nước mình. Do vậy, mỗi người, ai cũng gắn bó máu thịt với làng mạc quê hương, ruộng lúa, bờ tre, ngọn rau, tấc đất của mình. Chính vì lẽ đó mà người dân xứ Lạng tự hào:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bỏ công hác mẹ sinh thành ra em.
Người con của mảnh đất xứ Nghệ cũng hãnh diện về quê hương mình:
Đường vô xứ nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Xưa kia hay ngay cả bây giờ, trong hàng triệu người Việt Nam, có biết bao người chưa một lần đặt chân đến Kinh Kì (Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội), mảnh đất trái tim Tổ quốc. Thế nhưng ai lại không xúc động tâm hồn khi nghe thấy những lời ca thắm thiết:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Dù yêu một cây đa bến nước vô danh, hay yêu bức "họa đồ" của một vùng "non xanh nước biếc" hữu danh nào đó, thì đấy cùng là khởi điểm của tình yêu đất nước, là tình cảm cao quý, thiêng liêng đối với hồn thiêng sông núi Việt Nam.
Chính từ tình yêu cao cả ấy mà mỗi người Việt Nam xác định được một thái độ tình cảm đúng đắn, đôi xử với nhau, "chị ngã em nâng", "lá lành đùm lá rách", hỗ trợ nhau trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Khi ấy, lòng yêu nước thể hiện ra ở tình cảm đồng bào máu thịt:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Bầu và bí tuy là khác giống, nhưng vẫn là nghĩa chị tình em, vì cùng sinh trưởng chung trên một giàn. Con người đâu khác. Tuy nguồn gốc, hoàn cảnh và địa vị xã hội khác nhau, nhưng mọi người vẫn tồn tại trong cùng chung một đất nước. Trong quá trình dài lâu sống chung với nhau như thế, tình cảm hình thành, phát triển, trong ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có từ đồng bào để chỉ "người trong một nước". Từ đó, một câu ca dao đầy gợi cảm đã nảy sinh từ nghìn xưa, đến nay ai ai cũng nhớ nằm lòng:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Trong ca dao Việt Nam, tình yêu đất nước đồng bào thiết tha, nồng thắm bao nhiêu thì tình cảm gia đình càng thiết tha nồng thắm bấy nhiêu. Điều này đã rõ. Gia đình từ nghìn xưa vốn là đơn vị cơ bản của đất nước. Gia đình thuận hòa, êm ấm là góp phần làm nên một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Ai cũng biết trong tình cảm gia đình, cao quý nhất là tình cảm của con cái đối với các bậc sinh thành. Ca dao có biết bao câu tuyệt đẹp về mối quan hệ này:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Đặc biệt, ca dao có những câu tuyệt đẹp về tình cảm mẹ con:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Vì thế, khi chia xa, phải rời mẹ, có người con nào không khỏi bâng khuâng đau xót:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Trân trọng tình cảm gia đình, nhân dân ta đề cao tình yêu vợ chồng gắn bó nồng thắm, thủy chung. "Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn". Cả trong cảnh ngộ đói nghèo, khổ cực, người bình dân vẫn yêu đời:
Râu tốm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Bởi lẽ họ nghĩ là:
Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.
Trong cuộc sống, nhân dân phải làm việc vất vả, thường xuyên va chạm với biết bao trở ngại chông gai, hiểm nguy, cùng cực, nhưng từ nghìn xưa, người lao động vẫn luôn giữ được lòng son sắt với cuộc đời. Có gì nhọc nhằn hơn công việc một nắng hai sương, dầm mưa dãi gió, để mong sao có được "dẻo thơm một hạt". Thế mà họ làm nên được bao khúc hòa ca lao động:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Mỗi thành viên một việc làm, kể cả con trâu nữa chứ! Đủ thấy đối với nhà nông, thật đúng "con trâu là đầu cơ nghiệp", nên được họ yêu thương biết mấy. Thử nghe lời họ thủ thỉ với con trâu:
Trâu ơi! Ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Gắn bó khăng khít với thiên nhiên, hơn ai hết, người nông dân cảm thấy yêu mến, hãnh diện trước bức tranh thiên nhiên hào phóng, tươi đẹp, có cả phần xương máu, mồ hôi của cha ông bao đời, của cả chính mình góp phần tô điểm:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Chính lòng yêu đời, niềm lạc quan, đã giúp người lao động vượt lên mọi gian khổ để vui sống, vững tin:
Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Cho dù phải lâm vào cảnh đời đau thương tủi cực, phải lỡ bước sa chân, người nông dân hướng thiện, trước sau vẫn giữ vẹn một tấm lòng nhân hậu thủy chung, nào khác con cò trong câu ca dao gợi cảm: dù chết vẫn muốn được chết trong sạch, thanh cao:
Cỏ xáo thời xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Bởi vậy, có người so sánh vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân với hoa sen:
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Là phương tiện để bày tỏ tiếng nói trái tim, nói chung, ca dao đã thể hiện khá sinh động, tuy chưa phải là đầy đủ và toàn diện những sắc thái tình cảm thiết tha và cao quý của nhân dân lao động, nhưng cũng đủ cho ta thấy một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của những người đã sản sinh ra nó.
Ngày nay đọc lại, ai cũng thấy ngoài giá trị nghệ thuật văn chương, ca dao còn có giá trị nhân văn to lớn.
Ca dao không những là tiếng nói của khối óc mà chủ yếu còn là tiếng nói trái tim của nhân dân ta. Thật vậy, trong hàng ngàn năm sống, làm việc và chiến đấu đã qua, cha ông ta đã bày tỏ tình cảm buồn vui của mình trong vô vàn câu ca dao gợi cảm. Qua đó, chúng ta cảm nhận được những tình cảm thiết tha và cao quý của người Việt Nam mình thật rõ rệt.