KIỆN TRỜI
Một thầy lại về hưu trí. Có người anh em họ nghèo túng, tưởng thầy giàu đến hỏi vay tiền. Thầy nói:
-Tôi tính hay rượu được đồng nào uống hết. Chú bảo tôi làm đơn đi kiện thì tôi làm cho, chú vay tiền thì tôi không có.
Người kia nói:
-Tôi nhờ bác làm hộ cái đơn kiện trời, tôi ăn ở hiền lành mà sao phải bần cùng mãi.
Thầy lại lấy giấy viết ngay, rồi đốt đi để kiện trời (theo phong tục ngày trước , văn, sứ tâu quỉ thần đều phải đốt đi thì quỉ thần mới nhận được). Trời thấy đơn, nổi giận lôi đình hôm sau sai Đại thánh xuống bắt người kiện. Tôi, thổ công báo mộng cho người kiện biết: " mai, trời sai Đại thánh bắt mày đấy ".
Người kia sợ lắm, sáng sớm đến nói ngay cho thầy lại nghe. Thầy bảo:
-Chú cứ về dọn rượu ra, ta cùng đánh chén, còn công việc đó để mặc tôi.
Người kia biện rượu ra về, thầy lại uống hết. Thấy Đại thánh đến ngõ, thầy nói to:
-Đại thánh đánh trời, còn không có tội, huống chi ta.
Đại thánh sợ bỏ chạy. Hôm sau, Trời tức quá sai lão tử xuống bắt. Thổ công lại báo mộng cho người kiện biết. Người kia lại nói với thầy lại. Thầy nói:
-Chú lại về dọn rượu ra, không việc gì mà sợ.
Lúc Lão tử đến ngõ, thầy nói to:
-Lão Tử ở trong bụng mẹ bảy mươi năm còn không có tội, huống chi ta.
Lão Tử sợ chạy mất. Hôm sau, trời sai Phật ba xuống bắt. Thổ công lại báo mộng cho người kiện biết. Người kia lại nói với thầy lại. Thầy nói:
-Chú về mua rượu , tôi sang ngay.
Lúc Phật bà tới ngõ, thầy lại nói to:
-Phật bà trái ý bố mẹ, không lấy chồng, còn không có tội , huống chi ta.
Phật bà chạy mất. Hôm sau trời sai Lục đinh, Lục giáp xuống bắt. Thổ công lại báo mộng cho người kiện biết. Người kia lại nói với thầy lại. Thầy nói:
-Lần này chú mua thật nhiều rượu vào, uống xong tôi sẽ đi thay cho chú.
Lục đinh, Lục giáp đến bắt thầy giải lên Thiên đình. Trời truyền quỉ sứ đi mua nghìn quan tiền dầu, để bỏ thầy lại vào vạc nấu. Thầy lại nói với quỉ sứ:
-Năm trăm quan cũng đủ chết tôi rồi, còn năm trăm thì anh em để đấy mua đồ nhắm rượu giải phiền, vì anh em làm việc quan khó nhọc.
Quỉ sứ nghe êm tai, mua ngay rượu thịt cùng uống no say, nằm bất tỉnh nhân sự. Thầy lại vào tâu trời:
-Tội tôi phải mua một nghìn quan tiền dầu mà nấu mới đáng, chứ năm trăm quan thì nhẹ quá.
Trời nói:
-Trẫm đã truyền lệnh bảo mua một nghìn quan rồi mà.
Thầy lại nói:
-Bẩm quả chỉ có năm trăm quan thôi ạ !
Trời ra xem, thấy chỉ có năm trăm quan. Giận lắm, nói:
-Ở thiên đình còn có kẻ làm bậy, huống chi ở dương thế. Tha nó về.
HAI BẢY MƯỜI BA
Ngày xưa, ở làng nọ có hai vợ chồng trẻ. Anh chồng cậy thế hay bắt nạt vợ, nhưng chị vợ cũng đáo để, chẳng phải tay vừa.
Một hôm, nhà chồng có giỗ. Chị vợ nấu chè rồi bưng lên cho chồng bày trên bàn thờ để cúng. Mỗi lần bưng hai bát, cả thảy là bảy lần, vị chi là mười bốn bát tất cả. Chị vợ nhẩm tính rõ ràng như vậy.
Nhưng bàn thờ vừa nhỏ vừa hẹp, anh chồng bày kiểu gì cũng cứ dư ra một bát. Anh ta tặc lưỡi: “Thôi, ta cứ ăn thử, vợ nó chả biết đâu mà sợ!". Ăn xong anh ta rửa bát thật sạch, lén cất vào chạn, không để cho vợ nhìn thấy.
Cúng xong, chị vợ bưng chè xuống mâm, đếm đi đếm lại thì chỉ có mười ba cái bát. Chị đứng thần người ra mất một lúc, suy đi nghĩ lại rồi hỏi chồng: “Tại sao lại thiếu một bát chè ?”. Anh chồng thản nhiên đáp: “Thì mình bưng lên bao nhiêu, tôi bày bấy nhiêu”. Chị vợ phân trần: “Tôi bưng tất thảy bảy lần, mỗi lần hai bát. Hai bảy mười bốn, sao bây giờ lại chỉ còn mười ba?". Anh chồng lúc này mới ớ ra là chị vợ đã đếm cẩn thận, nhưng nhận là mình ăn vụng thì bẽ mặt quá nên giở giọng hờn dỗi, cả vú lấp miệng em: “Tôi biết đâu đấy" Hay là mình nghi cho tôi ăn?". Chị vợ bực mình, hét lên: “Anh không ăn thì còn ai vào đây nữa ? Rõ dơ !”. Sôi tiết, anh chồng đỏ mặt tía tai, nạt vợ: “ A! Con này láo! Mày bảo ông ăn vụng thì tang chứng đâu? ông đánh tuốt xác ra bây giờ!”. Dứt lời, anh ta xông vào tát vợ, lại hất đổ cả mâm chè xuống đất.
Ức quá, chị vợ kiện lên quan. Anh chồng lo lắm, vừa sợ quan phạt vừa sợ mất mặt với xóm làng, bèn mang lễ vật đút lót cho quan. Quan huyện ăn của đút đã quen, thấy anh ta dàng lễ vật hậu hĩnh, liền hứa sẽ thu xếp cho êm thấm mọi chuyện.
Hôm xử kiện, quan bảo chị vợ nói trước rồi mới dõng dạc phán rằng:
- Đám giỗ là đám giỗ nhà chồng chị, không lẽ anh ta lại thất lễ như thế? Hai lần bảy có khi là mười bốn mà cũng có thể là mười ba lắm chứ! Chị thử ngửa mặt lên đếm số đòn tay trên mái nhà kia kìa! Rõ ràng mái trước bảy, mái sau bảy, vậy mà tổng cộng có mười ba. Đúng không ?
Anh chồng xuýt xoa khen tài quan lớn, nhưng chị vợ không chịu, định cãi cho ra lẽ. Quan dập bàn quát: “Thánh nhân đã dạy phu xướng phụ tuỳ. Vợ chồng bay đưa nhau về, cố ăn ở cho hoà thuận, đừng có mà bày vẽ kiện tụng lôi thôi. Lần này ta tha, lần sau tái phạm ta sẽ phạt nặng, nghe chưa!”.
Hai vợ chồng về đến nhà, hàng xóm kéo sang rất đông hỏi chuyện. Anh chồng đắc chí, cười nói huyên thuyên. Còn chị vợ buồn rầu than thở:
Nực cười ông huyện Hà Đông,
Xử vị lòng chồng, hai bảy mười ba.
Không nghe, tan cửa nát nhà,
Nghe thì hai bảy mười ba cực lòng.
Ngày trước, dân ngụ cư là kẻ thấp kém nhất trong làng. Cho nên, đến Yên Lược, vừa dựng xong túp lều, Xiển bị bọn lý trưởng bắt ra làm mõ.
|
hihi
Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:
- Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?
Xiển đáp: – Dạ có ạ!
Vua bảo: – Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.
- Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!
- Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.
- Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!
- Tại sao!
- Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.
- Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.
Xiển năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:
- Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: “Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: “Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?”, rồi tắt thở.
Xưa, có một anh học trò nghèo rất thông minh, thuê một căn nhà ở trọ trong phố.
Đối diện với nhà anh là nhà một bà cụ chuyên nghề quay tơ, có một cô con gái út rất nết na thùy mị, chăm việc bếp núc.
Bà cụ thường đe bọn thanh niên hàng xóm:
– Có già ở đây, bọn bây đừng hòng léng phéng đến con Út.
Một ngày kia. Lúc bà cụ đang quay tơ, cô Út nấu ăn dưới bếp, anh học trò cầm một cái chén nhỏ xíu sang nhà bà cụ:
– Thưa bác, hôm nay cháu nấu ăn quên mua nước mắm, bác cho cháu xin một muỗng.
Thấy anh học trò ăn nói dễ thương nên bà cụ cũng dễ dãi:
– Ừ con cứ xuống bếp nói con Út đưa cho.
Anh học trò đi xuống bếp, giấu cái chén tỉnh bơ:
– Cô Út, bác nói cô cho tôi… nắm tay cô một chút.
Cô Út sợ quá la toáng lên:
– Má ơi! Anh này ảnh kêu…
– Thì mày để cho nó một chút. Có mất cái gì đâu!
Cô Út đành đứng im cho anh nắm tay. 3 bữa sau, anh học trò lại sang:
– Thưa bác, cho con xin một củ hành nhỏ.
– Con cứ xuống bếp nói con Út đưa cho.
Anh ta lại xuống bếp:
– Cô Út, bác nói cô cho tui hôn cô một cái.
Cô Út la lớn:
– Má ơi! Anh này ảnh đòi…
– Thì mày cứ để cho nó một chút…
Cô Út đành để cho anh ta hôn. Cứ thế khi thì hạt tiêu, trái ớt, khi thì muỗng muối, hạt đường, cô Út cứ đành phải “cho một chút"… Một thời gian sau, anh ta đã được ở… rể nhà bà cụ.
Nguồn: https://cuoivuive.com/thu-doan-tan-gai-xinh-cua-hoc-tro-ngheo#ixzz52HvZdItM
Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:
- Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?
Xiển đáp: – Dạ có ạ!
Vua bảo: – Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.
- Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!
- Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.
- Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!
- Tại sao!
- Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.
- Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.
Xiển năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:
- Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: “Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: “Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?”, rồi tắt thở
Thầy đồ thường dạy học trò đã đối thì phải đối cho chọi mới hay. Một hôm, thầy ra một vế đối: “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc” (Thần nông dạy dân trồng ngũ cốc).
Tất cả học trò đang ngơ ngác chưa biết đối thế nào. Thì anh học trò nọ đã gãi đầu gãi tai:
- Thưa thầy, chữ “thần” con xin đối với chữ “thánh” có chọi không ạ?
Thầy nói:
- Ðược lắm!
Anh ta lại hỏi:
- Chữ “nông”, con đối với “sâu”, có chọi không ạ?
Thầy nói:
- Ðược lắm!
Anh ta lại hỏi tiếp:
- Chữ “giáo” đối với “gươm”, “dân” đối với “vua” có chọi không ạ?
Thầy gật đầu:
- Ðược lắm, được lắm!
Anh ta lẩm nhẩm: “Nghệ” đối với “gừng”, “ngũ” đối với “tam”, “cốc” đối với “cò”.
Cuối cùng anh ta xin đọc:
- Bây giờ con xin đối ạ! “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc” con xin đối là: “Thánh sâu gươm vua gừng tam cò”.
Có anh chàng kia, tính rất khù khờ. Biết thế nên trước khi anh ta đi làm rể, mẹ anh ta đã đinh ninh dặn dò:
- Thất bố vợ làm gì thì con phải làm theo, chớ đừng hếch mắt lên mà nhìn, người ta cười cho, nghe không? Nhớ lời mẹ dặn, một hôm bố vợ đang cuốc đất, anh ta chạy lại đỡ lấy cuốc nói:
- Thầy để con làm cho. Ông bố vợ vui vẻ trao cuốc cho, rồi đi trồng chuối. Thấy thế, anh ta lại chạy theo và bảo để đó anh làm cho. Lần này ông bố vợ không nói gì cả, bỏ đi đốn tre. Anh ta lại chạy theo giật lấy dao . Bực mình vì anh con rể giành mất việc mà chẳng làm xong việc gì, ông ta bỏ về nhà.
Dọc đường cái khăn bịt đầu vướng phải cành tre, ông ta cũng không buồn nhặt, cứ thế đi. Anh con rể không có khăn cũng vộ cởi ngay áo treo lên cành tre, rồi tất tả chạy theo bố vợ về. Về đến nhà, ông ta hầm hầm chạy vào buồng vợ sinh sự với vợ:
- Ðồ ngu! Chọn thế nào mà lại vớ phải một thằng rể điên. Sáng nay chẳng làm được việc gì với nó cả! Hai vợ chồng cãi nhau, rồi ông ta đạp cho vợ một đạp. Anh rể vừa hộc tốc chạy về, thấy thế cũng co cẳng đạp cho mẹ vợ thêm một đạp nữa ngã lăn kềnh.
Có người hay nói nịnh. Một hôm, đến thăm quan huyện, vừa vào dinh, đã khen rối rít:
- Quan lớn nhân đức thật. Thú dữ cũng phải lánh đi nơi khác. Hôm qua, vừa bước chân vào địa hạt ta tận mắt tôi thấy cọp kéo nhau từng bầy đi sang huyện bên cạnh.
Quan nghe, cũng chối tai, nhưng vẫn cười gượng. Một lúc, dân tới báo đêm qua cọp bắt mất ba mạng người, xin quan đưa lính về bắn trừ đi, kẻo nó ăn hết thiên hạ.
Quan huyện quay lại hỏi khách:
- Sao ngài bảo trông thấy cọp bỏ đi cả rồi !
Người kia bí quá, nói liều:
- Chắc quan huyện bên cạnh cũng nhân đức chẳng kém gì quan lớn, nên nó không có chỗ trú chân, đành phải quay trở lại huyện nhà.
Một người vừa mới tậu được con bò. Tối đi ngủ, anh ta chốt chuồng bò cẩn thận rồi lại đặt cái chỏng ngay lối ra vào mà nằm ngủ. Ấy thế mà ban đêm, kẻ trộm vẫn dắt mất bò của anh ta.
|
CON VỢ KHÔN LẤY THẰNG CHỒNG DẠI NHƯ BÔNG HOA NHÀI CẮM BÃI ***** TRÂU
Xưa, có một người đàn bà làm nghề dệt vải. Nàng bản tính thông minh tháo vát, nhưng lấy phải người chồng đần độn không làm được nghề gì nên thân. Một hôm, vợ đưa cho chồng mấy tấm vải bảo mang ra chợ bán. Vợ dặn: – “Nếu không được bốn quan mỗi tấm thì đừng có bán, nghe!”
Chồng mang vải ra chợ đi khắp nơi, rao khản cả cổ mà chả có ai mua cả. Mãi về sau có một ông cụ già mua cho hai tấm. Nhưng ông ta lại không mang tiền theo. Ông cụ bảo hắn:
– Chốc nữa anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi cũng ở trong xã này thôi.
Hắn hỏi:
– Nhà ông ở đâu?
– Tôi ở chỗ: “chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt”. Đến đó tôi sẽ trả tiền ngay.
Đến chiều hắn đi tìm người mua hàng chịu của hắn. Gặp ai hắn cũng hỏi thăm “chỗ chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt” là ở đâu, nhưng chẳng một ai biết thế nào mà trả lời. Người ta chỉ nói với hắn:
– Thôi rồi, anh mắc phải tay bịp bợm nào đấy thôi!
Hắn đi loanh quanh mãi đến tối mịt không tìm được nhà, đành phải trở về ôm mặt hu hu khóc.
Vợ hắn hỏi tại sao thì hắn kể cho vợ nghe tất cả câu chuyện. Người vợ bảo:
– Cũng dễ tìm thôi! “Chỗ chợ đông không ai bán” là cái nhà trường, “chỗ kèn thổi tò le” là bụi lau vì khi gió thổi nghe như tiếng kèn sáo, “chỗ cây tre một mắt” là bụi hành hay tỏi gì đó. Vậy anh phải kiếm người đó ở một cái trường học, gần đó có bụi lau, trước cửa có vườn trồng hành tỏi.
Qua ngày sau, anh chồng lại cất bước đi tìm. Quả đúng như lời người vợ nói, hắn gặp ông lão hôm qua. Đó là một thầy đồ dạy học trò. Thấy hắn đến, ông đồ liền hỏi xem nhờ ai mách cho mà biết được chỗ ở của mình. Hắn đáp: – “Tôi tìm ông suốt cả một buổi chiều hôm qua. May nhờ có vợ tôi mách cho đấy”. Ông thầy nghĩ: -“Người đàn bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp”. Hôm đó nhân nhà có giỗ, ông đồ mời hắn ngồi lại ăn cỗ. Hắn ta cắm đầu chén một bữa no nê lại được ông đồ gửi phần về biếu vợ. Nhưng khi trả tiền, ông đồ còn gửi hắn một gói khác bảo đưa cho vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở giữa có cắm một cánh hoa nhài. Hắn ta chẳng hiểu gì cả cứ việc cầm lấy về nhà.
Người vợ trông thấy, hiểu ý ông thầy muốn mỉa mai mình:
Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cắm bãi ***** trâu
Càng ngẫm nghĩ về “gói quà”, nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về cho mình một lời trêu chọc chua cay, rồi nghĩ tới duyên phận hẩm hiu, nước mắt nàng lã chã. Nàng vứt cái thoi, bụng bảo dạ: – “Thân thế ta thật chả ra gì. Trên đời có bao nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm phải một thằng chồng u mê đần độn!”. Trong một cơn phiền muộn, nàng chạy ra bờ sông, toan nhảy xuống dòng nước trẫm mình cho rồi một đời.
Lại nói chuyện ông thầy dạy học, sau khi tiễn chân anh chàng bán vải ra khỏi cửa, nghĩ đi nghĩ lại thấy sự trêu chọc ác nghiệt của mình thật là không phải. Ông đâm ra lo câu chuyện đưa tới một kết quả không hay: – “Không biết chừng người đàn bà ấy phẫn chí liều thân hoại thể thì ta sẽ có tội rất lớn với danh giáo”. Nghĩ thế, ông đồ bèn đi mượn một cái giỏ đựng cá thủng trôn, rồi mang ra bờ sông cùng với chiếc cần câu làm bộ câu cá. Ông cứ men theo dọc bờ sông gần làng, đi lại trông chừng. Khi thấy một người đàn bà ngồi trên bờ vắng đang ôm mặt khóc thút thít, ông biết ý vội tiến đến gần, có ý chìa giỏ cho nàng thấy và nói:
– Chị này ngồi tránh đi chỗ khác cho tôi câu cá nào.
Người đàn bà đó đúng là vợ anh chàng bán vải. Nàng ngước mắt trông lên thấy có một người đàn ông đầu đã hai thứ tóc mà lại mang chiếc giỏ rách đi câu. Nàng tự nghĩ: – “Người nào đây ngu quá là ngu. Chồng mình tuy khờ dại nhưng cũng chưa đến nỗi này”. Rồi nàng kết luận: – “Vậy ra chồng mình vẫn còn có những chỗ hơn người”. Nghĩ vậy, nàng bỏ ý định tự tử mà trở về nhà.
BÁN KẸO
Hai vợ chồng nhà nọ muốn ghẹo nhau giữa ban ngày, nhưng sợ đày tớ biết. Hôm ấy, ở làng dưới có đám ma, anh chồng nghĩ mẹo cho đầy tớ đi buôn kẹo đến đó bán kiếm thêm ít tiền, tiện thể cho nó đi khuất mắt.
Người đầy tớ nghĩ bụng: “Quái! Sao bỗng dưng hôm nay lại bảo mình đi bán kẹo? Hẳn ở nhà có sự gì đây”. Thế là anh ta trở về lẻn ra đằng sau nhà, rình xem.
Vợ chồng nhà chủ đưa nhau vào buồng, chồng hỏi đùa vợ:
- Về sau tôi chết, thì mình khóc là gì nào?
- Tôi khóc mình là: “Anh ơi! Chứ là gì nữa?”
Vợ lại hỏi đùa chồng:
- Về sau tôi chết, thì khóc là gì?
- Tôi khóc là: “Em ơi chứ là gì nữa?”
Người đày tớ nghe thấy thế, liền rao lên:
- Ai mua kẹo ra mua!
Anh chồng vội chạy ra quát:
- Sao không xuống dưới mà bán!
- Thưa ở đây có những hai đám ma còn không bán được đồng nào, nữa là đằng
kia chỉ có một đám.