Tập làm văn lớp 7

Trần Hiền

giới thiệu ngắn gọn về tinh thần yêu nước được thể hiện ở mỗi hình ảnh sau đây

Thảo Phương
13 tháng 1 2018 lúc 20:52

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Lời nhận xét của Bác rất khả quan và chính xác về phẩm chất của người dân Việt.
Những trang sử vàng là minh chứng cho lòng yêu nước của dân tộc ta. Từ xưa, nhiều vị anh hùng đã hi sinh tính mạng để đổi lấy sự hòa bình, độc lập cho đất nước. Hàng nghìn năm Bắc thuộc, dân ta đều sẵn sàng đứng lên đấu tranh. Lòng yêu nước đã tạo nên phẩm chất của một vị anh hùng trong người họ và cho họ thêm sức mạnh để đánh tan kẻ thù. Chắc người Việt chúng ta ai cũng biết câu nói nổi tiếng của Trần Bình Trọng:
Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc.
Ở những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, ngoài các chiến sĩ đã hi sinh xương máu thì còn có các nhà văn, nhà thơ đã sử dụng văn chương để chống giặc.
Thơ xưa chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông
Nay trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Hồ Chí Minh)
"Tất cả chỉ vì tình yêu Tổ quốc". Thử hỏi không có lòng yêu nước thì liệu có còn tên "Việt Nam" trên bản đồ thế giới. "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

Bình luận (1)
Bích Ngọc Huỳnh
14 tháng 1 2018 lúc 11:56

Bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là đoạn trích trong văn kiện Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Qua đoạn trích này, tác giả khẳng định lòng yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước đó được thể hiện rõ ràng nhất, rực rỡ nhất trong những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Đoạn trích cũng phản ánh thái độ trân trọng, tự hào của tác giả trước truyền thống ấy.
Tuy chỉ là đoạn trích nhưng bài văn vẫn có đầy đủ tính chất đặc trưng và cấu trúc của một văn bản nghị luận chứng minh với ba phần rõ rệt như sau:

Mở bài: Từ đầu đến lũ cướp nước: Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta. Đó là sức mạnh to lớn trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.

Thân bài: Tiếp theo đến lòng nồng nàn yêu nước: Chứng minh những biểu hiện cụ thể của tinh thần yêu nước trong lịch sử chống ngoại xâm và trong cuộc kháng chiến hiện tại.

Kết bài: Phần còn lại: Nhiệm vụ của Đảng là động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân ta ngày càng phát huy mạnh mẽ để cuộc kháng chiến chống Pháp đi tới thành công.

Bố cục như trên cho thấy sự hợp lí và chặt chẽ trong phương pháp lập luận. Nghệ thuật nổi bật nhất của bài văn là cách lựa chọn và trình bày dẫn chứng.

Phần mở bài nêu lên vấn đề được đưa ra nghị luận: Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta… nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Trong cuộc sống chiến đấu, trong xây dựng biểu hiện của lòng yêu nước rất phong phú và đa dạng, ở bài viết này, tác giả nhấn mạnh đến lòng yêu nước ở các cuộc chống ngoại xâm bởi nó được bộc lộ mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất. Đặc điểm lịch sử của đất nước ta là luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm nên rất cần đến lòng yêu nước và tinh thần xả thân vì nước. Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần thi đua yêu nước của toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt biểu dương những gương sáng về lòng yêu nước.

Để khẳng định sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, tác giả đã mượn một hình ảnh hoành tráng có tính chất tượng trưng để so sánh: … lòng yêu nước kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lòng yêu nước được nhắc lại nhiều lần (bằng đại từ thay thế nó), kết hợp với các động từ có khả năng gợi cảm lớn như: kết thành, lướt qua, nhấn chìm… làm nổi bật sức mạnh không gì ngăn cản nổi của lòng yêu nước. Âm hưởng hào hùng của câu văn làm rung động trái tim muôn người. Cảm xúc sôi nổi, nhiệt thành, khâm phục và rất đỗi tự hào của Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc lộ rõ trong từng câu, từng chữ.

Ở phần thân bài, để chứng minh cho nhận định trên, tác giả đã đưa ra những chứng cứ hùng hồn trong lịch sử giữ nước và trong thực tế cuộc kháng chiến chống Pháp để chứng minh. Đó là những tấm gương yêu nước sáng soi muôn đời của các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng:

Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,,.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.

Bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là bốn ngàn năm kế thừa và phát huy liên tục truyền thống yêu nước. Lòng yêu nước như một mạch ngầm thiêng liêng không bao giờ vơi cạn trong dòng máu mỗi người dân đất Việt. Giờ đây, nó được biểu hiện thành những hành động thiết thực:

Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ,… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.

Trong đoạn cuối văn bản, tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh đặc sắc để cụ thể hóa khái niệm trừu tượng, giúp người đọc, người nghe hiểu được một cách dễ dàng:

Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.
Bác đã phân tích rõ hai trạng thái của tinh thần yêu nước là tiềm tàng, kín đáo và sôi nổi, mãnh liệt.

Bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng và hệ thông dẫn chứng chân thực, bài văn có sức thuyết phục rất lớn. Nhiều thủ pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng như so sánh, liệt kê, lặp cấu trúc câu và hàng loạt động từ có khả năng gợi cảm cao… làm cho câu văn trở nên nhịp nhàng, cân đối, khỏe khoắn. Do vậy mà âm hưởng bài văn hào hùng như âm hưởng của một lời hịch kêu gọi, khích lệ toàn dân đoàn kết một lòng đánh đuổi xâm lăng, bảo vệ chủ quyền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc.

Bài văn đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi người dân. Truyền thống anh dũng, bắt khuất là cơ sở vững chắc bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Ngày nay, bài văn trên vẫn còn nóng bỏng tính thời sự, có tác dụng động viên nhân dân Việt Nam vững bước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.

Bình luận (1)
Nguyễn Hải Đăng
14 tháng 1 2018 lúc 12:05

inh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Và theo Giáo sư Trần Văn Giàu. “tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam" và “chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu độ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam.”(1)

Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại lên tới trên 12 thế kỷ!) Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đây. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (2)

Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên. Từ thế kỷ thứ III tr. CN., dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 tr. CN. đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên - Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh... Rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Có những bà mẹ có tới chín người con trai, một người con rể và cả chồng là liệt sĩ! Đây là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước không phải là một triết lý đế án đàm, nó là kim chỉ nam cho hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên.

Hình thành từ sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần mà, theo Giáo sư Trần Văn Giàu, “vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là tuỳ thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy”.

Ngày nay, toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu, khách quan , cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Toàn cầu hoá chứa đựng nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít những thách thức. Để nắm vững và dân dụng có hiệu quả những cơ hội, đồng thời vượt qua những thách thức, mỗi quốc gia cần phải phát huy được tối đa sức mạnh vốn có của mình và lấy đó làm nền tảng đưa đất nước tiến lên.

Việt Nam bước vào hội nhập trong điều kiện đất nước đã hoàn toàn giải phóng, nhân dân được sống trong hoà bình. Nỗi nhục mất nước đã được rửa, nhưng nỗi nhục nghèo đói thì vẫn còn đó. Nước ta vẫn còn là một nước trong nhóm các quốc gia nghèo nhất thế giới hiện nay, đời sống của đại đa số nhân dân còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, khoa học và công nghệ còn lạc hậu. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn đang từng ngày, từng giờ âm mưu chống phá nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, đặc biệt là sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Có thể nói, đây là thời kỳ đầy khó khăn, thách thức đối với cách mạng Việt Nam và mức độ khốc liệt của nó cũng không thua kém gì so với thời kỳ chiến tranh giành độc lập dân tộc. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải phát huy tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc, tinh thần dám xả thân nước mà ông cha ta để lại để đưa đất nước vượt qua những thử thách khắc nghiệt này.

Mặt khác. xu thế toàn cầu hoá lai đang có những tác đông không nhỏ đến tinh thần yêu nước hiện nay của nhân dân ta theo những chiều hướng khác nhau. Trong bối cảnh hội nhập, chúng ta dễ dàng nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của cả thể giới bởi vì, dưới những hình thức đa dạng của toàn cầu hoá, ranh giới giữa các nước dường như mờ đi, khoảng cách dường như ngắn lại, mức độ cập nhật thông tin gần như là tức thời, sự xâm nhập lẫn nhau về tư tưởng, lối sống giữa các quốc gia là rất lớn. Trước tình hình đó đã có nhiều người tự thấy trách nhiệm của mình đối với đất nước, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc được đánh thức bởi “trông mình lại nghĩ đến ta" và mong muốn làm được một cái gì đó có ích cho dân tộc mình, đất nước mình.

Trong khi đó, cũng đã xuất hiện không ít tư tưởng so sánh rồi bi quan về tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nước ta so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Có người sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí cả Tổ quốc để có được một cuộc sống vật chất vương giả. Không ít người được cử ra nước ngoài học tập nhưng lại không muốn trở về nước để phục vụ Tổ quốc, mà tìm mọi cách ở lại nhằm có được cuộc sống giầu sang, sung sướng cho riêng mình. Tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước vốn có trước kia bây giờ đã có dấu hiệu giảm sút. Có nhiều thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự, không muốn cống hiến, chỉ muốn hưởng thụ. Cũng có không ít người còn lợi dụng chính sách mở cửa để kiếm lợi riêng cho bản thân mình, bất chấp cả lợi ích của quốc gia, dân tộc. Đã xuất hiện tư tưởng sùng bái một cách tuyệt đối các giá trị vật chất cũng như tinh thần của các nước tư bản phát triển dẫn tới đánh mất lòng tự hào dân tộc, làm tăng mức độ đòi hỏi về quyền lơi mà không chú trọng tới nghĩa vụ của bản thân mình đối với Tổ quốc.

Thêm vào đó, sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường đã làm cho nhiều người dân chỉ mải mê kiếm tiền bằng mọi cách mà ít khi nghĩ đến vận mệnh của đất nước. Đau lòng hơn, tâm lý này không chỉ có ở những người dân bình thường, mà còn có ở không ít cán bộ, đảng viên. Tình trạng tham nhũng trở nên phổ biến như một quốc nạn, số đảng viên tha hoá về mặt nhân cách ngày càng tăng. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của quần chúng nhân dân, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và làm giảm sức chiến đấu của Đảng ta. Đây là một mảnh đất thuận lợi cho việc tiến hành những âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Rõ ràng, trong bối cảnh toàn cấu hoá hiện nay, tinh thần yêu nước truyền thống phải được kế thừa và phát huy một cách cao độ hơn bao giờ hết, nhưng tinh thần đó cũng cần phải được bổ sung nhưng nội dung và hình thức mới cho phù hợp. Nếu như trước đây, tinh thần yêu nước truyền thống lấy độc lập dân tộc làm mục tiêu cao nhất với phương châm "tất cả cho tiền tuyến" , thì ngày nay, yêu nước phải là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc là nấc thang để tiến tới mục tiêu cao hơn là mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (3).

Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Có xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh mới tạo ra cơ sở vật chất để bảo vệ Tổ quốc. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu không có một cơ sở vật chất - kỹ thuật ngang tầm với trình độ văn minh thế giới. Chính vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là phương hướng cơ bản để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới.

Để vững vàng bước vào hội nhập, chúng ta không những phải bảo vê được nền độc lập tự chú của quốc gia, mà còn phải có được một tiềm lực kinh tế vững mạnh, đủ sức hợp tác và cạnh tranh trên trường quốc tế. Vì vậy trong bối cảnh hiện nay, trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng quốc phòng và an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ. Trong điều kiện mới hiện nay, xây dựng và bảo vệ đang xâm nhập lẫn nhau đến mức xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của xây dựng. Đây là điểm rất mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay.

Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay cần được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực và mọi đối tượng. Có như vậy mới có thể phát huy tối đa tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội vào sự nghiệp đấu tranh chung vì những mục tiêu cao đẹp của chủ nghĩa xã hội. Đối với mỗi người dân Việt Nam ngày nay, yêu nước là luôn có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trước tiên, phải có lòng tự hào dân tộc, có ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá tri vật chất cũng như tinh thần mà dân tộc ta đã tạo dựng được từ bao đời nay. Mặt khác phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó và góp phần làm thất bại mọi âm mưu đen tối nhằm chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Hơn nữa, mỗi người cũng cần thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự để bảo vệ vững chắc vùng trời. vùng biển thân yêu của Tồ quốc. Trong xây dựng kinh tế, yêu nước chính là cố gắng phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện, lao động để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Lớp trẻ ngày nay cần mạnh dạn xông pha nơi trận tuyến kinh tế và tri thức, cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách để chiếm lĩnh những đỉnh cao mới với tinh thẩn “đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta" , mà nên tự hỏi “ta đã làm gì Cho Tổ quốc thân yêu”. Dân giàu thì nước mới mạnh, vì vậy mà mỗi người hãy đem hết tài năng và trí tuệ của mình để làm giàu một cách chính đáng cho bản thân và cho xã hội. Mỗi cá nhân, dù ở cương vị nào, cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ của mình, biết hưởng các quyền lợi nhưng đồng thời cũng phải thực hiện tốt mọi nghĩa vụ của công dân, phấn đấu góp phần đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười để từng nói: các thế hệ trước đây đà "rửa được nôi nhục nô lệ cho dân tộc", thế hệ ngay nay "phải tiếp nối sư nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà để rửa nỗi nhục nghèo khổ, mớ ra một chương sử mới rạng rỡ cho non sông Việt Nam vinh quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới"(4)

Từ thế kỷ thứ XV, Nguyễn Trãi đã từng khẳng định rằng, nước Đại Việt ta thật là một nước văn hiến và hào kiệt không bao giờ thiếu. Kế thừa tư tưởng đó, yêu nước ngày nay là phải nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, tránh tư tưởng tự ti, bi quan. Mặt khác, yêu nước phải gắn với sự phát triển chung của phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào chống chủ nghĩa khủng bố... vì sự tiến bộ xã hội trên toàn thê giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần ái quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế". (5) Tinh thần yêu nước truyền thống Viết Nam gắn liền với tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị giữa nhân dân lao động các dân tộc trên thế giới. Nó được kế thừa và phát triển trong quan điểm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cây của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" của Đảng ta.

Yêu nước trong bối cảnh hiện nay đặc biệt phải gắn liền với độc lập tư chủ và ý chí tự lực tự cường. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độ c lập tự chủ, tránh được sự lệ thuộc về nhiều mắt vào các đối tác trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta không thể trông đợi vào sự giúp đỡ vô tư của các nước khác, cũng không thể có thái độ thu động, ỷ lại vào bất cứ ai. Chúng ta cần phải nhận thức rõ rằng. trong quan hệ quốc tế, một trong những nguyên tắc cơ bản được đặt ra là : bình đẳng và cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Vì vậy, ngày nay một mặt, chúng ta vẫn tiếp nhận các nguồn vốn vay, vốn viện trợ... của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta nên thận trọng với những điều kiện kèm theo những ưu đãi đó, không vì việc nhỏ mà hy sinh việc lớn, không cái lợi trước mắt mà không chú ý đến cái lợi lâu dài của quốc gia, dân tộc. Trong khi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. chúng ta cần xác định dựa vào nguồn lực trong nước là chính.

Yêu nước ngày nay phải kết hợp chặt chế với việc chống tham nhũng, bởi nó chính là một trong những thù trong vô cùng nguy hiểm. Về phía Nhà nước, cần phải xây dựng được một cơ chế quản lý thích hợp, đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những kẻ tham nhũng. Về phía nhân dân, không nên tiếp tay hay tạo cơ hội cho việc tham nhũng, mà cần phát hiện, tố cáo với các cơ quan hữu quan để xử lý kịp thời. Các tố chức đảng cũng cần tăng cường công tác phê và tự phê một cách có hiệu quả, tiến tới làm trong sách hàng ngũ của Đảng để Đảng ta thực sự làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Cần khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch đang xảy ra rất phổ biến ở nhiều cơ quan nhà nước hiện nay đe Nhà nước ta thực sư là Nhà nước của dân, do dân và vì dân và để kế thừa tư tưởng yêu nước mà Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: yêu nước gắn liền với thương dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu.

Như vậy, yêu nước ngày nay là đem hết tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng của từng người, từng tập thể và cả cộng đồng dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước; vươn lên mạnh mẽ trong sản xuất, kinh doanh theo phương châm "ích nước, lợi nhà”; tăng cường đoàn kết dân tộc thành một khối thống nhất cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh và đoàn kết với nhân dân thế giới trong sư nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong suốt quá trình hội nhập đề vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tinh thần yêu nước phải nằm vươn tới mục tiêu: dân giàu. nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh mà Đảng ta đã đề ra.

Bình luận (0)
Khiết Nguyệt
17 tháng 1 2018 lúc 15:51

Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.

Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…

Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam - Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.

Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.

Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam - Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”

Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!...” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):

“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.

Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:

“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”

Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”

Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:

“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.

Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:

“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”

Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:

“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.

Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.

Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.

Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…

Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam - Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.

Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.

Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam - Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”

Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!...” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):

“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.

Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:

“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”

Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”

Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:

“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.

Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:

“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”

Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:

“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.

Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.

Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.

Bình luận (0)
Bích Ngọc Huỳnh
14 tháng 1 2018 lúc 11:57

Trong số những truyền thống vô cùng quý giá như tinh thần yêu nước, truyền thống cộng đồng, truyền thống dân chủ làng xã, quý trọng gia đình, truyền thống dung dị, chất phác, tiết kiệm, ghét thói phù phiếm xa hoa, truyền thống cần cù chịu đựng gian khổ, yêu trẻ, kính già, vi tha, bao dung, truyền thống hiếu học, ứng xử linh hoạt, thích nghi nhanh và dễ dàng hội nhập để tồn tại… thì nổi trội hơn cả là truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự lập tự cường.
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Và theo Giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam.
Thực ra, trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc, sự hình thành cũng như biểu hiện của nó lại có sự khác nhau. Ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền thống, và là hằng số trong mỗi người Việt Nam, là tiêu điểm của mọi tiêu điểm. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc…
Tinh thần yêu nước Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người thân yêu ruột. thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
Tình yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước, nó còn được thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới, hầu như dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng. Nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ III TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành hơn nửa thời gian cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược.
Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại lên tới trên 12 thế kỷ). Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đây.
Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên. Từ thế kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh… Rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, nếu không có tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, làm sao một dân tộc nhỏ yếu như chúng ta có thể làm nên những chiến trắng vang dội, đánh thắng được những kẻ thù mạnh nhất thế giới. Lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Đó là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.

Bình luận (0)
Ánh Hồng Nguyễn
21 tháng 1 2018 lúc 21:36

H ảđâu bn

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Phương Hoa
22 tháng 1 2018 lúc 20:04

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Lời nhận xét của Bác rất khả quan và chính xác về phẩm chất của người dân Việt.

Những trang sử vàng là minh chứng cho lòng yêu nước của dân tộc ta. Từ xưa, nhiều vị anh hùng đã hi sinh tính mạng để đổi lấy sự hòa bình, độc lập cho đất nước. Hàng nghìn năm Bắc thuộc, dân ta đều sẵn sàng đứng lên đấu tranh. Lòng yêu nước đã tạo nên phẩm chất của một vị anh hùng trong người họ và cho họ thêm sức mạnh để đánh tan kẻ thù. Chắc người Việt chúng ta ai cũng biết câu nói nổi tiếng của

Trần Bình Trọng:

Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc.

Ở những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, ngoài các chiến sĩ đã hi sinh xương máu thì còn có các nhà văn, nhà thơ đã sử dụng văn chương để chống giặc.

Thơ xưa chuộng thiên nhiên đẹp, Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông

Nay trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

(Hồ Chí Minh)

"Tất cả chỉ vì tình yêu Tổ quốc". Thử hỏi không có lòng yêu nước thì liệu có còn tên "Việt Nam" trên bản đồ thế giới. "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

Bình luận (0)
__HeNry__
28 tháng 1 2018 lúc 21:46

Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.

Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…

Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam - Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.

Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.

Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam - Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”

Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!...” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):

“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.

Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:

“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”

Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”

Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:

“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.

Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:

“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”

Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:

“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.

Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.

Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.

Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…

Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam - Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.

Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.

Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam - Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”

Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!...” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):

“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.

Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:

“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”

Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”

Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:

“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.

Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.

Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:

“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”

Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:

“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.

Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.

Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.

Bình luận (0)
Louise Francoise
28 tháng 1 2018 lúc 21:56

- Hình 1 : Thánh Gióng giúp dân đánh đuổi giặc, đem lại bình yên cho quê hương, đất nước.

- Hình 2 : Nhân dân đứng dậy, phất cờ khởi nghĩa, quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê nhà.

- Hình 3 : Các chiến sĩ đồng lòng mang súng lên dốc cao phục vụ cho trận chiến.

- Hình 4 : Mọi người đang mang những hòm gỗ nặng chứa đầy đạn tiếp viện cho quân ở mặt trận.

(Bài này mình mới soạn thôi, không được đúng lắm nha)

~ Yorin ~

Bình luận (3)

Các câu hỏi tương tự
Việt Mai Quý
Xem chi tiết
Nguyễn Hà An
Xem chi tiết
Ki bo
Xem chi tiết
Ki bo
Xem chi tiết
rtte
Xem chi tiết
Thành Tâm
Xem chi tiết
Vu Tran
Xem chi tiết
Trần Thị Mai Trang
Xem chi tiết
Diệp Quỳnh Anh
Xem chi tiết