bạn tham khảo dàn ý nhé, chúc bạn học tốt :"D
I) Mở bài :
- Dẫn dắt vấn đề :
Thơ ca Việt Nam có biết bao tác phẩm viết về tình cha con rất xúc động nhưng ta không thể nào quên được tình cha con trong chiến tranh lại càng thiêng liêng , cao đẹp . Điều đó được thể hiện qua tác phẩm " Chiếc lược ngà " của Nguyễn Quang Sáng . Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện tình cha con đẹp đẽ sâu đậm khiến người đọc không thể nào quên được
II) Thân bài :
* Giới thiệu :
- Chiếu lược ngà viết 1966 viết trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta rất gay do
- Truyện kể ngôi thứ nhất qua lời kể của Bác Ba
- Chiếc lược ngà là kỉ vật cuối cùng của ông Sáu dành cho bé Thu
- Nhà văn dẫn dắt nhân vật vào tình huống éo le để nhân vật bộc lộ sâu sắc tình cha con
- Nói sơ lược cốt truyện
* Cảm nhân
A ) Bé Thu cảm nhận tình yêu thương một cách mãnh liệt
- Qua các tình huống khi bé Thu lần đầu gặp người đàn ông có vết sẹo dài trên mặt
- Qua việc không chịu vâng lời ông Sáu nói
- Qua việc ông Sáu gắp trứng cá trong bữa cơm và bị bé Thu hất ra
- Qua việc trèo thuyền qua bên nhà ngoại , được bà ngoại giải thích cặn kẽ và bé Thu mới hiểu ra đó là ba mình
- Qua việc bé Thu thét lên "Ba..a..a " và những hành động của Thu
- Qua việc ông Sáu cảm thấy xúc động và sau khi về căn cứ làm một " Chiếc lược ngà "
- Qua việc ông Sáu trao kỉ vật này cho đồng đội mình khi ông đã hi sinh trên chiến trường
III) Kết bài :
- Tác phẩm trên mang đậm đà tình cảm , làm góp phần phong phú cho nền văn thơ Cách mạng Việt Nam . Truyện giúp cho người đọc hiểu cách nhìn trọn vẹn hơn về giá trị hạnh phúc gia đình để từ đó người đọc càng biết nâng niu quý trọng tình cảm thiêng liêng này
A, Mở bài:
– Nhà văn Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang, tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. ông là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm viết về cuộc sống gian nan mà hào hùng của đồng bào miền Nam trong cuộc đối đầu lịch sử với quân xâm lược Mĩ.
– Truyện “Chiếc lược ngà “ được Nguyễn Quang Sáng sáng tác năm 1966 tại chiến trường miền Tây Nam Bộ, nội dung kể về tình cha con vô cùng đặc biệt và cảm động của người cán bộ cách mạng.
B, Thân bài:
* Phân tích:
+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau bảy năm xa cách.
– Anh Sáu thoát li gia đình đi hoạt động cách mạng lúc con gái mới được một tuổi. Bảy năm sau, anh mới có dịp ghé thăm nhà, bé Thu đã lên tám tuổi.
– Anh Sáu quá đỗi vui mừng, muốn bày tỏ tình cảm yêu thương, âu yếm đối với con.
– Ngược lại, bé Thu đối với anh như người xa lạ: sợ hãi, xa lánh, dù má giải thích thế nào đi nữa, bé vẫn dứt khoát không nhận ba.
+ Cảnh chia tay đầy cảm động.– Bữa cơm đoàn tụ, anh Sáu gắp cho con miếng trứng cá, béThu vùng vằng hất xuống đất. Anh Sáu đã nổi giận, đánh con một cái vào mông. Bé Thu giận lắm nên em đã chèo xuồng sang sông với bà ngoại ngay lúc đó.
– Trong phút chia tay bịn rịn, tình yêu thương và nỗi khát khao được gặp cha bùng dậy trong lòng bé Thu khiến bé hối hả, cuống quýt bày tỏ tình cảm của minh.
– Bé bật kêu lên tiếng gọi “Ba!”, chạy lại ôm ghì lấy cổ ba không rời, khóc nức nở, không cho ba đi nữa.
– Chứng kiến cảnh này, hẳn ai ai cũng xúc động, xót xa. Bác Ba (bạn của anh Sáu) bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm chặt lấy trái tim đến nghẹn ngào.
C, Kết bài:
– Truyện “Chiếc lược ngà” như đã diễn tả chân thực tình cha con thắm thiết và sâu nặng. Trong hoàn cảnh chiến tranh, tình cảm ấy càng thiêng liêng, ngời sáng.
– Ẩn dưới câu chuyện đó như đã được kể một cách khách quan là tiếng nói lên án chiến tranh xâm lược gây bao đau khổ cho con người
chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại : Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”…
Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích SGK đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.
Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước găp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã tới
* Mở bài:
Nguyễn Quang Sáng đã để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp văn học khá đồ sộ. Đóng góp lớn của Nguyễn Quang Sáng cho văn học Việt Nam là nhà văn đã ca ngợi những con người bình dị và anh hùng mang đậm tính sử thi và cảm thông cho những phận người nhỏ nhoi cả trong và sau cuộc chiến. Truyện ngắn Chiếc lược ngà thể hiện sâu sắc đặc điểm nghệ thuật ấy trong sáng tác của ông.
* Thân bài:
– Có thể nói, Chiếc lược ngà là một tác phẩm trong đó có bản lĩnh riêng của Nguyễn Quang Sáng được bộc lộ trên khá nhiều mặt đặc sắc. Không chỉ khắc họa thành công các nhân vật, truyện ngắn Chiếc lược ngà còn ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ, thiêng liêng.
– Tóm tắt: Anh Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương và tình yêu con tha thiết. Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, anh Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng mong được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha. Thế nhưng ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le – bé Thu không nhận cha. Anh Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng, bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng anh. Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối. Dù mọi người hết lời giải thích nhưng bé Thu vẫn bướng bỉnh không chịu nghe. Cho đến khi cha con nhận ra nhau cũng là lúc anh sáu phải trở lại chiến khu. Cuộc chia tay trên bến sông đẫm đầy nước mắt, làm xúc động người đọc.
Nhận xét: Ẩn sau cái tình huống trớ trêu ấy là chiến tranh, kẻ thù của hòa bình, tự do và hạnh phúc. Không một tiếng súng, không đạn bom, không tiếng gầm thét, chiến tranh giống như một bóng ma, lẩn lút trong từng số phận, trong từng gia đình. Chỉ tại chiến tranh mà anh Sáu phải rời xa gia đình khi con gái anh mới chưa tròn một tuổi. Chỉ tại chiến tranh mà con bé lớn lên không có sự chăm sóc và che chở của cha. Tâm hồn thơ dại của con bé tin rằng cha ở trong bức ảnh và luôn ở bên mình. Chỉ tại chiến tranh đã gây nên vết thương trên mặt anh Sáu và mọi ngộ nhận, khúc mắc cũng từ đó mà ra. Thật đớn đau thay, chỉ một vết thương nhỏ trên mặt thôi mà gây ra cái bị kịch đẫm đầy nước mắt. Nhà văn không lên tiếng tố cáo chiến tranh nhưng thông qua câu chuyện, ông đã gián tiếp thể hiện sự phẫn nộ của mình trước sự tàn khốc, ác nghiệt do chiến tranh gây ra. Ông tạo nên một nhận thức mới trong tâm trí người đọc: chiến tranh đâu chỉ hiển hiện qua đạn bom và và chết chóc; chiến tranh còn ẩn mình trong từng số phận con người, gây nên biết bao thương đau, mất mát. Nó còn đáng sợ hơn cả khi ta đối mặt với kẻ thù trên trận tuyến.
Trên chiến khu, anh Sáu dành tất cả tình yêu thương con gái vào việc làm cây lược. Thế nhưng, khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái, anh Sáu đã hi sinh.
Bình luận: Cái chết của anh Sáu làm người đọc sực tỉnh nhận ra bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Một câu chuyện đẹp sắp đến hồi kết bỗng dưng bị cụp tắt, niềm hi vọng bị cắt rời ra từng mảnh. Người đọc không khỏi hụt hẫng rồi quằn quại xót đau và không cầm được nước mắt khi anh Sáu móc cây lược trao lại cho người đồng chí và gửi gắm ý nguyện cuối cùng.
Chiếc lược ngà còn là một niềm an ủi đối với người đọc, để cho người đọc còn tin tưởng tưởng rằng tình yêu luôn bất tử dù trong bất cứ hoàn cảnh nào và nhận ra nguồn sống đang kết tụ, đang lớn dần lên trong tâm hồn mình bé Thu, trở thành sức mạnh quật cường sau này.
Phân tích: Chiến tranh không hiện hình nhưng tội ác đang tung hoành. Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con bị đặt trong tìn huống trớ trêu đầy nước mắt. Tình cảm bị thử thách cao độ, rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. Cái chết của anh Sáu, hình ảnh chiếc lược ngà là nhân chứng tố cáo chiến tranh phi nghĩa, gây đổ máu vô ích, làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn.
Nhận xét: Chiếc lược ngà như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Phải là người từng trải, sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ; hơn nữa lại có giọng văn dung di, cảm động.
* Kết bài:
Tác phẩm làm xúc động người đọc, có tác dụng cổ vũ và nâng cao tâm hồn con người. Nguyễn Quang Sáng là nhà văn ngợi ca, ông ngợi ca không chỉ bằng niềm tin Cách mạng mà bằng cả sự hiểu biết, bằng những suy nghĩ về con người miền Nam quật cường, anh dũng.
Mở bài:
- Nguyễn Quang Sáng là nhà văn đã tham gia cả hai cuộc kháng chiến p và chống Mĩ của dân tộc. Với cách viết dung dị, mộc mạc, các sáng tác của ông tập trung thể hiện vẻ đẹp về cuộc sống và con người Nam bộ trong chiến tranh cũng như hòa bình.
- Có thể coi (Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà viết trong thời chống Mĩ cứu nước. Truyện đã để lại nhiều suy nghĩ sâu sắc cho người đọc về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh.
Thân bài:
a/ Trình bày xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt truyện và nêu chủ đề:
- “Chiếc lược ngà được viết 1966, tại chiến trường Nam Bộ, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con, đồng chí sâu nặng.
- Tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn.
b/ Suy nghĩ về tình cảm gia đình trong chiến tranh:
- Chiến tranh là tổn thương tình cảm gia đình.
- Tình vợ chồng: suốt mấy năm chồng đi kháng chiến, vợ chồng ông Sáu chỉ gặp nhau có mấy lần, những lần đi thăm rất khí khăn (qua rừng, xa xôi,…), mỗi lần chỉ gặp nhau vài ngày ® họ sống trong nhờ thương, chờ đợi.
- Tình cha con:
Sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha:
- Lúc mới gặp ông Sáu, “con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng” ® nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”.
- Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…).
- Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho ® bị ông Sáu đánh ® nó bỏ sang nhà bà ngoại.
Þ Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách.
- Nguyên nhân: bé không nhận ông Sáu là ba vì ông Sáu có vết thẹo trên mặt “không giống cái hình ba chụp với má”. Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những tình thế éo le, khắc nghiệt của chiến tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm tâm hồn Thu rướm máu ® hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa.
- Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình:
- Xuồng chưa cặp bến, ông Sáu đã nhảy lên bờ gọi, đưa tay đón con, rất xúc động làm vết thẹo đỏ ửng giần giật, “giọng lặp bặp, run run”. Khi bé Thu chạy vụt đi, thét lên hoảng hốt, sợ hãi… ® “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
- Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng lẫn tránh, lạnh lùng, vô lễ ® ông càng đau khổ hơn (năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…)
* Chiến tranh không thể hủy diệt tình cảm gia đình:
Tình vợ chồng:
Bà Sáu vẫn vượt đường xa, nguy hiểm đến thăm chồng; khi ông Sáu về phép, bà lo lắng chăm sóc cho chồng (lo chuẩn bị đồ đạc, xếp từng chiếc áo,…)
Tình cha con:
- Tình cảm thắm thiết mà ông Sáu dành cho con:
+ Trong chuyến về phép thăm nhà: rất thương nhớ con lúc ở xa (lần nào cũng bảo vợ đưa con lên, đến lúc được về cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh); lúc mới thấy con: rất xúc động (giọng run run, vết sẹo đỏ giần giật…); luôn cố gắng kiềm chế nỗi bực dọc ngay cả khi con vô lễ; lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con ® sợ con không chịu, ông
chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu” ® khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động.
+ Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngà (“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc hàng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” ® lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.
+ Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được” ® gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay.
- Tình cảm bé Thu đối với cha:
Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên (Ba…a…a… Ba!) ® tiếng “ba” mà nó cố đèn nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó. Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máu với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba” ® bé Thu đã hiểu, muốn bù đắp tình cảm những ngày qua ® tình cảm với cha rất mãnh liệt.
a. Nhận xét đánh giá:
- Qua “Chiếc lược ngà”, người đọc nhận ra hậu quả tinh thần không nhỏ mà chiến tranh gây ra. Nó phần nào làm sứt mẻ, mất mát tình cảm gia đình, là niềm đau nhức nhối, dai dẳng trong lòng con người. Đây là đóng góp quan trọng của tác giả.
- Truyện còn giúp người đọc nhận ra đời sống tình cảm mãnh liệt của con người Việt Nam,vẻ đẹp tâm hồn. Chiến tranh dù khốc liệt đến đâu cũng không hủy diệt được tình cảm gia đình, tình cảm con người.
b.Nghệ thuật:
- Để thực hiện những điều trên, nhà văn đã sử dụng: tình huống độc đáo (cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, bé Thu không nhận cha. Lúc nhận ra thì ông Sáu lại phải ra đi (tình huống cơ bản). Ở khu căn cứ, ông dồn hết tình cảm thương nhờ con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng
con nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp trao cho con món quà ấy. Xây dựng nhân vật khá thành công (bé Thu hiện lên đặc sắc, cụ thể, sinh động, tính cánh nhất quán, mạnh mẽ: cứng cỏi, ương ngạnh nhưng hồn nhiên, ngây thơ, chân thành, mãnh liệt trong tình cảm; ông Sáu chân thành, sâu sắc rất mực yêu thương con và là một chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước); chi tiết chiếc lược ngà đã nối kết hai cha con trong sự xa cách ngay cả khi ông đã hi sinh, là hiện thân của tình yêu thương, nỗi mong nhớ của ông Sáu với con và nó trở thành kỉ vật của tình cha con sâu nặng.
- Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện có tác dụng rõ rệt trong việc vừa kể chuyện vừa bày tỏ sự đồng cảm với các nhận vật và thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Kết bài:
- Tác giả đã thể hiện thành công đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh. Đó là tình cha con (chủ yếu), tình vợ chồng thắm thiết gợi nhiều xúc động, suy nghĩ về tình cảm con người trong chiến tranh.
- Qua tác phẩm, người đọc hiểu thêm về chiến tranh và tình cảm con người trong chiến tranh.
- Thấy được tài năng của nhà văn.