Ngô Tất Tố là một nhà văn nổi tiếng, một nhà văn hiện thực xuất sắc, chuyên viết về nông thôn trước cách mạng. Ông có rất nhiều tác phẩm đặc sắc, một trong số đó tiêu biểu là tiểu thuyết ” tắt đèn”. Dưới ngòi bút hiện thực sinh động với khả năng tạo dựng tình huống truyện giàu kịch tính đã khắc họa rõ nét nhân vật, đặc biệt là nhân vật chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, chị đại diện cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà nhà quê trước năm 1945.
Đoạn trích ” tức nước vỡ bờ” được trích trong chương XVIII của tác phẩm “Tắt đèn” . Đoạn trích đã vạch rõ bộ mặt xấu xa tàn ác của bọn xã hội thực dân phong kiến đương thời – xã hội đã đẩy người nông dân lương thiện vào cảnh vô cùng cực khổ bế tắc khiến họ phải liều mạng cự lại, đồng thời đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân Việt Nam cần cù lao động, giàu tình thương yêu chồng, thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Đoạn trích còn phản ánh một quy luật sống ở đời. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.
Trong truyện, chị Dậu là một người nông dân nghèo khổ, mộc mạc, hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả. Trong những ngày sưu thế ngột ngạt, tai nạn luôn lảng vảng, rình rập xung quanh những gia đình nghèo thiếu thuế. Trong lúc nước sôi lửa bỏng chị một mình cái thân xơ xác đôn đáo chạy vạy ngược xuôi để lo xuất sưu cho chồng, cho chú Hợi- em trai chồng, chị đành phải đứt ruột bán cái Tí, đứa con đầu lòng 7 tuổi bán đàn chó chưa mở mắt cùng một gánh khoai mà cũng chưa đủ tiền nộp sưu, chồng chị vẫn bị đánh trói. Anh Dậu được khiêng về nhà rũ rượi như một cái xác chết. Chị đã nấu cháo, quạt cho nguội rồi đi rón rén bưng cháo cho chồng, ngồi xem chồng có ăn ngon miệng không? Qua đó, ta thấy chị Dậu là người phụ nữ Việt Nam đảm đang, dịu dàng, chu đáo, tháo vát, chịu thương, chịu khó, tần tảo, tận tụy, là người phụ nữ giàu tình yêu thương chồng con hết mực.
Chị Dậu đã phải vùng lên, đánh nhau với người nhà lý trưởng và tên cai lệ để bảo vệ mạng sống cho chồng của mình. Lúc đầu, khi tên cai lệ và người nhà lý trưởng xồng xộc vào, chị đã cố van xin tha thiết, lễ phép, nhã nhặn vì biết chúng là ” người của nhà nước”. còn chồng chị là kẻ cùng định có tội. Chị run run xin khất rồi vẫn tha thiết van nài nhưng chúng không nghe. Tên cai lệ đã đáp lại chị bằng một quả ” bịch” vào ngực chị mấy bịch rồi sắn sổ tới trói anh Dậu. Chỉ khi đó chị mới liều mạng cự lại, bạn đầu chị cự lại bằng lí ” chồng tôi đau ốm ông không được phép hành hạ” , lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô không còn xưng cháu gọi ông mà lúc này là ông- tôi. Bằng sự thay đổi đó chị đã đứng lên vị thế ngang hàng, nhìn thẳng vào mặt tên cai lệ để đấu thách thức chúng. Khi tên cai lệ không còn trả lời mà con tát vào mặt chị Dậu mộ cái đánh bốp rồi nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt ” chị Dậu nghiến hai hàm răng lại, mày chói ngay chồng bà đi bà cho mày xem”. Lúc này cách xưng hô đã thay đổi, đó là cách xưng hô đanh đá của người đàn bà thể hiện sự căm thù ngùn ngụt khinh bỉ cao độ. Đồng thời, thể hiện tư thế của người đứng trên đầu kẻ thù và sẵn sàng chiến đấu, đè bẹt đối phương đấu lực với chúng, trong con người của chị Dậu như tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng bị đẩy đến bước đường cùng chị đã vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ bất khuất.
Mặc dù chị là người nông dân mộc mạc, hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả, nhưng không hoàn toàn yếu đuối mà tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng, ẩn sâu trong con người chị, chị là một phụ nữ có tính cách mạnh mẽ cứng cỏi với một tinh thần khỏe khoắn, dũng cảm một sức sống mạnh mẽ tiềm tàng nên sẽ không thể bị khuất phục trước những khó khăn cản trở nào.
Có thể nói chị Dậu là điển hình về cuộc đời và số phận của người nông dân trong xã hội cũ, dù sống trong hoàn cảnh tối tăm cực khổ nhưng họ vẫn ánh lên được phẩm chất cao đẹp của người nông dân hiền lành lương thiện giàu tình yêu thương, giàu lòng tự trọng. Chị Dậu mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nông dân giàu sức sống dưới ách áp bức của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến khi chưa bắt gặp ánh sáng đảng.