Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió bấc thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác khoác chiếc áo bông đã cũ, miệng ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống một cái hố tránh máy bay. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân đi về phía mình. Có tiếng hỏi:
- Chú nào ngã đấy?
Chưa kịp nhận ra ai, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật mình khi thấy Bác không khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân không, nước mắt tôi trào ra. Vừa kéo, Bác vừa hỏi:
- Chú ngã có đau không?
Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
- Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống! Ngồi xuống!
Tôi bàng hoàng cả người, không tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói như vậy không! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi trả lời Bác:
- Thưa Bác, cháu không việc gì ạ. Rồi tôi cố gắng bước đi để Bác yên lòng.
Bác cười hiền hậu và căn dặn: “Bất cứ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi Bác quay vào.
Tôi đứng nhìn theo Bác cho đến lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.
Các chú có lạnh không? |
Mùa xuân năm 1969 – mùa xuân cuối cùng trong đời Bác Hồ, chúng tôi được vào thăm Bác tại vườn hoa Phủ Chủ tịch, trong một căn nhà đơn sơ, giản dị. |
Cảm tưởng của tôi là không phải đến với một vị Chủ tịch, một vị lãnh tụ vĩ đại, mà là đến với một người cha già thân yêu, với người anh cả trong gia đình lớn. Ngay từ phút đầu, chúng tôi ngồi quây quần bên Bác trong không khí ấm áp, thân tình. Đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến với chúng tôi. BÁc thăm hỏi từng người một và mời chúng tôi ăn hoa quả. Bác hỏi: - Các chú thấy có lạnh không? - Thưa Bác, không ạ. Đối với chúng tôi, tháng Giêng ở Việt Nam quả là không lạnh. Bác nói: - Không lạnh nhưng rất nguy hiểm. Nói xong. Bác cởi chiếc khăn quàng của Bác và quàng cho đồng chí Mác Đêphơrin – Chủ tịch Ủy ban Việt Nam hôm ấy đang húng hắng ho. Cử chỉ ấy làm chúng tôi ai nấy đều cảm động, thể hiện những tình cảm của một người cha đối với những đứa con từ phương xa về. Chúng tôi sung sướng báo cáo với Người về phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở Cộng hòa Dân chủ Đức và trao tặng Bác những món quà của nhân dân nước chúng tôi gửi biếu Bác. Điều lạ là sau hơn bốn chục năm trời – kể từ khi Bác qua hoạt động bên nước chúng tôi – Bác vẫn nói tiếng Đức chính xác. Suốt đời tôi, tôi sẽ trân trọng giữ trong lòng mình kỷ niệm vô cùng quý báu, đó là bức chân dung mà chính Người đã ký tặng tôi trong lần gặp ấy. Và bên tai tôi lại văng vẳng những tiếng hô “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh” của thanh niên khắp năm châu trong những ngày đại hội liên hoan vừa qua ở Bétlin. Nghĩ đến Bác Hồ, nghĩ đến Việt Nam, tôi càng cống hiến nhiều hơn nữa cho Việt Nam và chính vì vậy mà tôi cảm thấy cuộc đời mình đang sống là có ý nghĩa biết ngần nào! |
Mình gợi ý trc nhé! Hồi trc mình có thi kể chuyện zề Bác! Câu chuyện của mình rất có ý nghĩa và mình đã đc giải nhất nhé!
Câu chuyện như sau:(nếu ko vừa ý bn thì thôi nhé)
Chuyện xảy ra vào một buổi sáng đẹp trời, Bác Hồ đến thăm các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhói. Nói chuyện với các đồng chí cán bộ trại, giọng bác nhẹ nhàng nhưng vô cùng thấm thía:
- “Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng sao các cô, các chú lại đây thép gai như một nhà tù thế này ?”.
Một đồng chí cán bộ phụ trách thưa:
- Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ !
Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ
nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.
Rồi Bác đi thăm phòng ăn , phòng ngủ, phòng học tập, phòng các cháu vui chơi. Bác khen : “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn thế nào các cô, các chú có biết không ?
Mọi người vừa xúc động , vừa lúng túng chú Thuận đáp:
- Thưa Bác các cháu ở trại còn chật chội ạ !
Bác mỉm cười và nói :
- Chú mới nói đúng có một phần nhỏ thôi.
Đối với các cháu mồ côi, cái lớn nhất là phải bù đắp tình thương. Các cháu đã không con bố, mẹ thì các cô chú là bố, là mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy phải đem cả tấm lòng của người làm cha, làm mẹ mà cư xử, mà săn sóc, dạy bảo các cháu. Bác thấy ở đây đối với các cháu còn cái vẻ “trại lính”, thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật, trật tự là đúng, nhưng không để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi thoải mái. Đừng biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các cô, các chú phải làm sao cho các cháu thấy trại trẻ Kim Đồng này là gia đình, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu
vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu ?
Rồi Bác hỏi một đồng chí phụ trách
- Những cháu kém có nhiều không ?
Thưa Bác còn nhiều lắm ạ !
- Nhiều là bao nhiêu ?
đồng chí phụ trách hơi bối rối, Bác nhắc nhở ngay:
- Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái
hay của mỏi đứa. Có như vậy mới có kết quả tốt được
và Bác lại hỏi chú Thuận đứng bên :
- Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại .
- Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác trìu mến vuốt nhẹ tóc em, Bác
hỏi :
- Tên cháu là gì ?
- Thưa Bác tên cháu là Quốc Lủi ạ ! Bác nhìn em ái ngại.
- Ai đặt cho cháu cái tên ấy ?
- Dạ thưa Bác các bạn gọi cháu thế ạ!
- Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc Lủi ?
- Thưa Bác …cháu …hay chốn trại, cháu chui qua hàng rào, lủi vào các ngõ
phố ạ !
- Sao cháu không chịu ở trong trại mà lai trốn ra bên ngoài.
- Thưa Bác ở trong trại khổ cực lắm ạ !
- Khổ cực như thế nào ?
- Chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ !
- Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào ?
- Thưa Bác …Quốc nghẹn ngào, không nói nên lời.
- Bác xoa đầu em và Bác khuyên Quốc “Từ nay cháu phấn đấu bỏ cái tên “lủi”
giữ lại cái tên Quốc. Bác cầm tay em Quốc đi ra cả trại đang chờ đón Bác, Bác thân mật kể cho các em, nghe gương tốt của các em thiếu nhi chống Pháp, gương các bạn thiếu nhi Liên Xô. Các em không cầm được nước mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của mình, Bác đã từng ước ao có một cái đồ chơi, được mẹ mua cho tấm áo mới trong ngày tết, và Bác cũng đã chịu cảnh mồ côi mẹ khi mới lên 9 lên 10; phải trèo trạo bế em bên hông đi xin sữa cho em khi mẹ qua đời …
Những lời căn dặn của Bác thân thương như lời của người ông khi ông dặn
cháu:
- Các cháu phải nghe lời các cô, các chú phụ trách, thiếu nhi thì phải ngoan,
phải thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật, ốm đau, các cháu trong tập thể với nhau thì càng phải thương yêu nhau, như anh em ruột thịt và phải dũng cảm sửa chữa khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm chủ đất nước, đừng để mình là gánh nặng của xã hội.
Rồi Bác hỏi :
- Các cháu có hứa làm được điều bác căn dặn không nào ?
- Một tiếng “có” vang lên, Bác còn căn dặn thêm là phải noi theo
gương liệt sĩ Kim Đồng. Em nào có kết quả tốt Bác sẽ gửi phần thưởng “Nếu cả trại tiến bộ vượt bậc Bác sẽ còn về thăm nhiều lần nữa”.
Hôm đó Bác đã dành rất nhiều quà cho các em, có những ẻm đã không
ăn món quà của Bác mà giữ lại như một kỷ vật đáng nhớ trong đời.
- Từ hôm nhận quà của Bác, trong mắt các em ngời lên niềm vui. Em Quốc
không lủi ra ngoài như trước nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm món quà của Bác trong trái tim.
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Theo quan điểm của Bác,giáo dục có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
hình thành nhân cách của con người. Bác dạy chúng em phải có tình yêu thương thật sự. Đem lòng yêu thương mà cảm hoá con người. Đối với những bạn có hoàn cảnh khó khăn phải dành cho các bạn một sự quan tâm, ưu ái đặc biệt.
Giờ đây, đất nước ta đã hoà bình, trẻ em được chăm lo trong tình thương yêu
của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Công ước quốc tế về quyền trẻ em được thông qua, điều đó khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước. Nhưng đâu đó trong sự xô bồ của cuộc sống ta vẫn bắt gặp những mảnh đời bất hạnh; những bạn trẻ không nơi nương tựa đang rất cần “Mái ấm tình thương”. Bản thân em đang là một học sinh ngồi trên ghế nhà trường em sẽ đem hết sức lực và tài năng cùng gắn bó với một lời hứa mãi mãi yêu thương mọi người, nhất là những bạn khó khăn hơn mình. Tiếp đó em sẽ không ngừng phấn đấu đật được thành tích cao trong học tậpvà cố gắng rèn luyện để không phụ tình cảm và niềm tin của mọi người. Đồng thời em sẽ quan tâm đến những bạn học sinh quá ham mê vào những trò chơi vô bổ mà quên đi nhiệm vụ học tập của mình, bản thân em và kêu gọi mọi người cùng sẽ chia với những em nhỏ kém may mắn, tàn tật, mồ côi cha mẹ…mong sao các em quên đi những đau thương mất mát để luôn vui tươi, tin yêu cuộc đời hơn.
Hơi dài! bn tham khảo nhé!
Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.
Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.
Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn nǎm" vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên đoàn vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ : "Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!
Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người:
"Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc".
Rồi Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:
Nhiễu diều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:
Lọ là thân thích ruột rà
Công nông thế giới đều là anh em.
Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.
Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhièu cho cuộc chống Mỹ cứu nước.
Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:
-Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không?
Mọi người đều đáp:
- Có ạ? Bác lại hỏi:
- Bao giờ làm?
- Dạ, họp xong về làm ngay.
- Làm được bao nhiêu?
- Thưa Bác làm khắp nơi ạ!
Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:
- Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.
Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.
Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi.
Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:
- Cụ ngồi xuống đây
Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.
- Cụ ông có khỏe không?
-Thưa có ạ!
- Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?
Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt thưa cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu chểnh mảng học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ǎn cắp làm mất trật tự trị an đường phố. Mẹ cha thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tôi cũng thưa với Bác những khó khǎn bước đầu trong việc tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến nay tôi đã có một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu niên tốt, những cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng thiếu nhi Thủ đô, hè nǎm 1962. Nhiều cháu đã được đeo huy hiệu Đoàn.
Bác lại hỏi thêm.
- Các cháu đối với cụ thế nào?
- Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện "5 điều Bác Hồ dạy".
Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:
- Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?
- Dạ có ạ!
- Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?
- Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho miền Nam giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện vọng duy nhất của tôi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ.
Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:
- Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.
Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn nǎm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước.
Hôm ấy về nhà, tôi đem chuyện gặp Bác kể cho các cháu nghe, thuật lại lời dặn dò của Người cho chị em phụ nữ trong khu Hội phụ nữ Đống Đa. Ai nấy đều vui mừng, nhất là các cháu chưa ngoan phải suy nghĩ nhiều. Tôi cũng lại nói cho mọi người ở khu phố tôi nghe. Lời kêu gọi thi đua của Bác đã được đǎng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền Nam chúng ta đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ nữ ở phía bên kia sông Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh anh dũng chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan hô đồng bào miền Nam anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa! Chính vì chúng ta đang xây dựng trong hoàn cảnh hòa bình, còn đồng bào miền Nam đang phải ngày đêm chiến đấu nên nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua "vì miền Nam" trong các cháu. Các cháu vừa học vừa làm tǎng giờ lấy tiền mua sách, xây dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những công nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp. Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu Quách Vǎn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ được Bác tặng huy hiệu.
Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý... các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, cửa Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "ông cụ trồng cây giỏi nhất nước". Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.
Ghi sâu lời Di chúc của Bác "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết", tôi xin hứa trước anh linh Người còn được ngày nào, tôi ra sức làm việc "bằng hai" để cho miền Nam chóng được giải phóng và để Bác vui lòng nơi chín suối.
Những điều này đã được ghi lại từ 1969 - một ngày thu mưa sầu gió thảm lưu luyến tiễn Bác đi xa...
Cụ Lê Thị Hoan vẫn còn sống, nǎm nay gần 90 tuổi. Tuổi cao, sức yếu, mắt kém, cụ không còn đủ sức dạy bảo các cháu nữa. Nhưng đã có người thay thế cụ. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp phụ nữ tiếp tay cùng cụ nhân hạt giống tình thương yêu của Bác gieo trồng khắp cả cánh đồng từ Bắc chí Nam. Cây tình thương yêu con trẻ của Bác Hồ mãi mãi lên xanh nay đã trở thành cây cổ thụ.
Sưu tầm
Đến cuối năm 1943, giải pháp cho Đông Dương sau chiến tranh vẫn chưa ngã ngũ, mỗi nước trong khối Đồng minh tự hành động theo quyền lợi của mình nên đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương triệt để tận dụng mâu thuẫn ấy để giành sự ủng hộ, viện trợ, hoặc cũng tạo sự phân hoá nội bộ Đồng minh, phục vụ cho mục đích thiêng liêng của Người là giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.
President Ho Chi Minh's visit to Poland. (1957)
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Ba Lan (1957)
Trong suốt quá trình vận động cách mạng, chuẩn bị đón thời cơ giành chính quyền, cùng với việc xây dựng thực lực cách mạng về quân sự, chính trị, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý đến công tác ngoại giao và thực tế một trong những đối sách Người áp dụng có hiệu quả là " thêm bạn, bớt thù" đã đóng góp một phần đáng kể cho việc giành chính quyền thắng lợi năm 1945.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai đang ở giai đoạn kết thúc, các nước đế quốc bắt đầu tính đến việc chia chác thị trường. Đến cuối năm 1943, giải pháp cho Đông Dương sau chiến tranh vẫn chưa ngã ngũ, mỗi nước trong khối Đồng minh tự hành động theo quyền lợi của mình nên đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ điều này, Người chủ trương triệt để tận dụng mâu thuẫn ấy để giành sự ủng hộ, viện trợ, hoặc cũng tạo sự phân hoá nội bộ Đồng minh, phục vụ cho mục đích thiêng liêng của Người là giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.
Giữa tháng 8-1942, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để tìm kiếm sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng Trung Hoa với tư cách là đại diện của Mặt trận Việt Minh (MTVM) và đại diện chi hội Việt Nam của Hội Quốc tế chống xâm lược, nhưng Người bị nhà cầm quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn một năm ở Quảng Tây. Cuối năm 1943, Người được trả tự do, nhưng vẫn bị quản thúc ở Bộ Tư lệnh Đệ tứ chiến khu, đóng ở Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây. Tại đó, lúc bấy giờ, tướng Trương Phát Khuê đã tập hợp với một số người Việt Nam thân Tưởng như: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh,... thành lập tổ chức "Việt Nam cách mạng đồng minh Hội" (hay gọi tắt là Việt Cách) từ cuối năm 1942 mang danh nghĩa cách mạng Việt Nam để chuẩn bị cho kế hoạch "Hoa quân nhập Việt".
Theo chủ trương lúc đầu, tổ chức này không có cộng sản, nhưng sau một thời gian dài hoạt động, Trương Phát Khuê nhận ra rằng "Ban chấp hành Việt Cách không có khả năng lãnh đạo; tham ô công quỹ do Tưởng cấp; chỉ có cơ sở lưu vong, không có cơ sở trong nước; nội bộ nhóm nọ chống nhóm kia"(1) nên Trương quyết định cải tổ Hội. Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh mới được ra tù nhưng bị quản thúc ở ngay trong Bộ Tư lệnh. Trương Phát Khuê đã nhận ra chỉ có Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo là có cơ sở rộng rãi trong nước, có thể đương đầu với phát xít Nhật. Trương cũng biết rằng Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, song y cũng thừa hiểu: "Nếu Trung Quốc muốn làm gì ở Việt Nam có hiệu quả thì phải liên hệ và tranh thủ Việt Minh"(2). Trương Phát Khuê quyết định đưa Việt Minh vào Việt Cách và mời Hồ Chí Minh tham gia vào công việc cải tổ Hội. Đây là cơ hội tốt để Hồ Chí Minh tranh thủ sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng. Trương đã giao cho Hồ Chí Minh thảo kế hoạch Hội nghị hải ngoại và kế hoạch Hội nghị toàn quốc của Việt Cách. Trong buổi gặp mặt các thành viên trù bị hội nghị, Trương nói: " Tôi cũng như các đồng chí cách mạng Việt Nam, không ai muốn ngồi đây chờ Hội nghị này tan vỡ. Từ lòng mong muốn đó, tôi có nhờ Hồ uỷ viên dự thảo hai bản kế hoạch này... Tôi đã xem kỹ, đây là những kế hoạch cách mạng, thể hiện sự công bằng, nhằm đoàn kết các đảng phái cách mạng"(3).
Chẳng bao lâu công việc cải tổ Hội hoàn thành và Hội nghị "các nhóm cách mạng hải ngoại" tiến hành họp từ ngày 25 đến 28/3/1944. Tại Hội nghị này, Hồ Chí Minh đã kêu gọi các đảng phái, tổ chức chính trị dẹp sang một bên sự bất đồng để đoàn kết, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chung là chống chủ nghĩa phát xít, giải phóng đất nước: "Mọi người đều hiểu rằng: làm một người dân mất nước thì đảng phái gì, chủ nghĩa gì cũng vô dụng, đồng thời mọi người cũng đã nhìn nhận, đều chung một mục đích là cứu nước nhà, cứu nòi giống... Ngoài công việc cứu nước ra thì lý luận gì, công tác gì của một đảng phái nào cũng không được nhân dân ủng hộ. Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới: Trung Quốc thì Tam dân chủ nghĩa, nước Anh thì Đế quốc chủ nghĩa, nước Nga thì Cộng sản chủ nghĩa, nước Mỹ thì Tư bản chủ nghĩa, thế mà có thể hợp tác với nhau để chiến thắng quân thù... xem ra các đảng phái liên hợp để đủ sức cứu Tổ quốc, cứu đồng bào. Nước Việt Nam là một bộ phận của thế giới, quyết không thể đi ngược dòng lịch sử"(4).
Những người tham gia Hội nghị này như ông Hồ Đức Thành kể lại: "Với tư thế của quan toà, Bác đã cho ra một bản báo cáo, thực tế là một bản phán xét, rất nghiêm khắc đọc tại Hội nghị, có đủ bọn tai to, mặt lớn Quốc Dân Đảng" (5). Ông Lê Tùng Sơn thì viết: "Trương Phát Khuê tỏ ra tự hào về Bác Hồ, vì nhờ có Bác mà Hội nghị Việt Cách đã có được mầu sắc như ông ta mong muốn"(6). Trương nhận xét Hồ Chí Minh là một người có ý kiến kiên cường và nỗ lực làm việc, có một tri thức rộng lớn về những vấn đề quốc tế hơn hẳn các lãnh tụ Việt Nam khác. Đánh giá Hội nghị này, nhà sử học Trung Quốc Kinh Cheng cho rằng: "ảnh hưởng bao trùm nhất của Hội nghị là lực lượng của Việt Nam Quốc dân Đảng, vị trí của Đảng Cộng sản Đông Dương chưa mạnh. Tuy vậy, cũng thấy rõ ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ dần lớn lên và chẳng bao lâu nữa sẽ biến tổ chức của kẻ thù thành tổ chức của mình. Điều mà Hồ Chí Minh đã đặt kế hoạch thực hiện"(7). Tuy vậy sau Hội nghị, Hồ Chí Minh nói với các đồng chí của mình: "Ta tham gia Hội nghị này là đúng, nhưng không nên có ảo tưởng với Tưởng Giới Thạch phải lấy Trung Quốc làm cái cầu để tranh thủ các nước Đồng minh"(8).
Sau Hội nghị hải ngoại, Quốc Dân đảng Trung Hoa đã thay đổi chủ trương, chấp nhận cho Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh tham gia vào Hội Việt Cách, chấm dứt thời kỳ bọn phản động lũng đoạn Hội này. Đây là thắng lợi đáng kể về đường lối ngoại giao của Đảng ta và Hồ Chí Minh. Song vấn đề quan trọng là sau hội nghị, Hồ Chí Minh được hoàn toàn tự do và trở về nước, lãnh đạo cách mạng, tạo ra thuận lợi có tính chất quyết định đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, còn phải kể đến những viện trợ vật chất ngoài dự kiến trong chuyến đi công cán lần này của Người như: " Giấy thông hành, bức thư của Trương, một bản đồ quân sự, thuốc men, và 76.000 đồng tiền Trung Quốc để chi phí đi lại và trợ cấp vào quỹ huấn luyện"(9) do Trương Phát Khuê cấp. Để làm yên lòng Trương và đặc biệt để ông ta không có những hành động cản trở đối với cách mạng Việt Nam, khi chia tay Trương, Hồ Chí Minh nói: "Tôi là một người cộng sản, nhưng điều quan tâm trước mắt của tôi là độc lập và tự do của nước Việt Nam, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản"(10). Đến khi phái đoàn quân sự của Pháp khẳng định với Quốc Dân Đảng Trung Hoa rằng Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc thì Người cùng các đồng chí của mình đã về nước an toàn.
Thời gian này ở Trung Quốc, lực lượng Đồng minh chống phát xít có thế lực nhất là người Mỹ, đặt trụ sở tại Côn Minh. Qua phân tích tình hình, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra mâu thuẫn trong lập trường giữa Mĩ - Anh - Pháp về vấn đề thuộc địa nói chung và vấn đề Đông Dương nói riêng. Lợi dụng mâu thuẫn này, Người quyết định phải tranh thủ sự ủng hộ của người Mỹ trong việc chống phát xít Nhật ở Việt Nam. Người quyết định đi Côn Minh để gặp gỡ, trao đổi nhằm: làm cho người Mĩ hiểu rõ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong việc chống phát xít Nhật, dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất, hơn nữa là nhằm hạn chế sự phá hoại của Quốc dân Đảng Trung Hoa, đang tích cực cho kế hoạch "Hoa quân nhập Việt".
Nhân cơ hội cuối năm 1944, một chiếc máy bay Mỹ bị quân đội Nhật bắn rơi ở Cao Bằng, viên phi công Shaw được Việt Minh cứu thoát, đầu năm 1945, Hồ Chí Minh cùng người phi công Mỹ lên đường đi Côn Minh - nơi Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ đóng trụ sở. Chính những giấy tờ Trương Phát Khuê cấp cho Hồ Chí Minh khi dời Liễu Châu đã giúp Người đến Côn Minh một cách an toàn. Tại Côn Minh, các cuộc tiếp xúc với tướng Sennô, Sáclơ Phen (người của Sở Tình báo OSS và tổ chức cứu trợ không quân Mĩ), Pátty (sĩ quan tình báo của Mĩ)... Người đã để lại những ấn tượng tốt đẹp đối với các quân nhân Mĩ trong các cuộc tiếp xúc. Trong con mắt họ, Hồ Chí Minh không biết có phải là cộng sản hay không nhưng là một người đáng kính, đang lãnh đạo một lực lượng đáng kể ở trong nước, có khả năng thực tế, hợp tác với quân Mĩ chống phát xít Nhật. Qua các cuộc tiếp xúc, giữa hai bên đã thoả thuận: Hồ Chí Minh nhận sẽ tổ chức cứu trợ những phi công đồng minh mắc nạn, cung cấp tin tức về quân đội Nhật ở Việt Nam. Phía Mỹ sẽ cung cấp thuốc men, vũ khí và những sỹ quan huấn luyện về kỹ thuật quân sự, vô tuyến điện cho Việt Minh.
Ngoài những vật chất kể trên, Hồ Chí Minh còn thu được những kết quả chính trị vô giá, đó là: bằng những cuộc tiếp xúc với hầu hết những cơ quan quan trọng của Mỹ trên đất Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã ngầm thông báo cho Tưởng Giới Thạch và phái bộ nước Pháp tự do của Đờ-Gôn rằng: Mặt trận Việt Minh do Người lãnh đạo, là đại diện chính thức của Mặt trận Đồng minh thế giới chống chủ nghĩa phát xít, việc này đã hạn chế phần nào dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam của Quốc dân Đảng Trung Hoa. Pátty nhận xét: Mặc dù tôi đã tỏ ra khách quan và cố tình tỏ ra thận trọng, không bị lôi cuốn vào khía cạnh chính trị của vấn đề Đông Dương. Nhưng sự chân thành, thái độ thực tiễn và tài hùng biện của ông Hồ đã gây cho tôi một ấn tượng không bao giờ quên... Đối với tôi, ông Hồ không xuất hiện như một nhà cách mạng viển vông, hoặc một người cấp tiến cuồng nhiệt, mà là một người thông minh, hiểu rõ những vấn đề của đất nước mình, một người có lý trí, và toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Và đánh giá: "Ông Hồ đã đi một nước cờ tài giỏi nhằm thu hút sự chú ý của người Mĩ, đồng thời làm cho Quốc dân Đảng Trung Hoa bối rối"(11). Còn Sáclơ Phen - người trực tiếp quan hệ với Hồ Chí Minh thì nói: "Hồ Chí Minh đã trở thành một lãnh tụ tuyệt đối của Đảng cách mạng vững mạnh. Điều kỳ lạ là người Pháp, người Trung Hoa và OSS bây giờ đều rất băn khoăn khi sử dụng mối quan hệ này"(12). Thực chất đến lúc này, cả Mỹ, Anh, Pháp và Quốc dân Đảng Trung Hoa đều không chấp nhận để Việt Minh cộng sản giành chính quyền, thành lập một Chính phủ độc lập, tự do trên đất nước Việt Nam. Nhưng bất chấp mọi mưu đồ xảo quyệt, bằng thực lực của chính mình, Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhanh chóng chớp thời cơ, phát động khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong cả nước. Chiều 2/9/1945, trước sự chứng kiến của hàng chục vạn nhân dân, Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: Nước Việt Nam độc lập, nhà nước dân chủ nhân đân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Một nhà sử học Mĩ nhận xét: "Trong cuộc đấu trí này, không phải chỉ riêng có Pháp bị "nhỡ tầu" mà cả Quốc dân Đảng Trung Hoa ở ngay sát cạnh miền Bắc Đông Dương cũng bị chậm chân. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cụ Hồ, Mặt trận Việt Minh đã trở thành "chủ nhân" với một Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới"(13).
Những thắng lợi ngoại giao đầu tiên kể trên là những bằng chứng điển hình của sách lược "thêm bạn bớt thù" của Hồ Chí Minh và chỉ có Người - nhà ngoại giao tài giỏi- bằng sự khôn khéo, thông minh, nhanh nhạy của một chính khách và tấm lòng của một người yêu nước chân chính mới có thể thực hiện thành công được. Thắng lợi đó tạo lợi thế cho cách mạng nước ta và hạn chế một phần những mất mát, hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền năm 1945.
Ngày 20-01-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 111-SL phong quân hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Sơn cùng với Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng,... sau khi ký sắc lệnh 110-SL phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp. Ngày 25-01-1948, Chủ tịch ký sắc lệnh phong quân hàm Trung tướng cho Nguyễn Bình. Đây là đợt phong quân hàm đầu tiên trong quân đội ta gồm 11 vị tướng. Trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, gian khổ, lễ phong quân hàm đợt I vẫn được tổ chức trọng thể và kịp thời.
Trong 11 vị tướng được phong quân hàm đợt này có hai vị trước kia đã làm việc với Bác Hồ trong thời kỳ Bác hoạt động ở Trung Quốc. Họ cùng học trường Hoàng Phố khoá 4 ở Quảng Châu, Trung Quốc và đã từng chỉ huy quân đội Trung Quốc, chỉ khác có một điều: “Nguyễn Sơn chỉ huy quân đội cộng sản còn Lê Thiết Hùng chỉ huy quân đội Quốc dân Đảng”.
Thiếu tướng Nguyễn Sơn
Sau khi có Sắc lệnh, có tin đồn đến Việt Bắc là Nguyễn Sơn không chịu nhận sắc lệnh phong thiếu tướng, hơn thế còn nói rằng mình là “thừa tướng” rồi, không cần gì đến Thiếu tướng... hoặc cấp Thiếu tướng xin phong cho đồng chí Đào Chính Nam, Khu phó, còn tôi xin nhận cấp đại tá thôi vì tài đức kém, v.v...
Nguyễn Sơn là một tướng có tài, đã từng tham gia Vạn lý trường chinh, có năng lực trên nhiều mặt. Tuy thế ông lại chủ quan, là Tư lệnh Liên khu IV, ông không giữ được đoàn kết chặt chẽ với các đồng chí lãnh đạo Đảng và chính quyền trong khu. Nguyễn Sơn, dù đã là cán bộ cao cấp của Đảng bạn, nhưng cũng mới về Việt Nam mấy năm. Vả chăng, với quân hàm Thiếu tướng, khi ấy Nguyễn Sơn cũng chỉ đứng sau hai người là Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Bình, đứng ngang hàng với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và nhiều cán bộ quân đội tài năng khác. Nhưng Nguyễn Sơn đã trì hoãn Lễ thụ phong do ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu IV, được Chủ tịch nước ủy nhiệm tổ chức.
Một chiều đầu năm 1948, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng cơm chiều với đồng chí Hoàng Đạo Thúy, liên lạc đặc biệt chuyển đến một công văn “hoả tốc”, Người hỏi:
- Ở đâu gửi đến? - Dạ, của ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu IV về việc Nguyễn Sơn...
Người khoát tay:
- Biết rồi! Chú cứ cất đi.
Và Người tiếp tục câu chuyện. Lát sau, Người lấy bút viết lên tấm thiếp những dòng chữ Hán sau:
Tặng Sơn đệ:
Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viên
Hạnh dục phương
12 chữ này lấy từ câu nói của Tôn Tư Mạo: “Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, trí dục viên nhi hạnh dục phương. Niệm niệm hữu nhi lâm dịch nhật. Tâm tâm thường tự quá kiều thi”. Dịch nghĩa là “Cái mật thì phải cho lớn gan rộng dài; cái tâm địa mình phải cho tế nhị, chín chắn; cái trí thì phải cho tròn trịa mềm mỏng; cái nết thì phải cho vương vức ngay thẳng, cứng cáp (ấy là phép làm người), khi tưởng thì phải tưởng như là ngay tới trước mặt giặc vậy; cái lòng thì phải e sợ như lúc đi ngang cây cầu vậy (chỉ lòng phải dè, phải sợ luôn luôn)”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy đoạn trước 12 chữ, bỏ đoạn sau, coi như người đọc đã biết, thay chữ “tiểu” bằng chữ “tế”. Theo Quang Đạm, “tiểu” là nhỏ, nhưng “tế” còn nhỏ hơn nhiều (tế nhị, tế bào) và khi “tế” đi với “đại” còn có nghĩa bao dung, rộng lượng.
Bằng cách thay thế “tế”, người đọc có thể hiểu rằng “Cái tâm của mình phải thật cho khéo léo, tế nhị, chín chắn... hơn nhiều lần so với cả người xưa đã dạy”.
Chủ tịch nước ký sắc lệnh phong tướng mà tướng “chê” thấp, không nhận sẽ thật là quá đáng. Hành động trên có thể quy vào tội “phạm thượng” vô kỷ luật, vô tổ chức. Ở thời phong kiến, người phạm tội ấy khó toàn mạng. Trong trường hợp này, nếu ra một mệnh lệnh chỉ trích, phê bình, cảnh cáo có thể sẽ làm Nguyễn Sơn phản ứng thêm. Nhưng nếu không có một hình thức nào để Nguyễn Sơn chấp nhận Sắc lệnh thì cũng không được, phép nước chẳng ra sao, kỷ cương bị xem nhẹ. Và cái chính là làm sao giải quyết cho “trong ấm, ngoài êm”, không đẩy người có lỗi vào ngõ cụt, lại khiến người ấy phục thiện, khơi dậy cái tốt, cái mạnh, đồng thời tránh để địch lợi dụng mâu thuẫn, làm hại cho sự nghiệp chung. Thêm nữa, cách giải quyết phải làm sao vẫn thể hiện được tình yêu thương, tôn trọng cá tính của cán bộ, tỏ rõ sự đại lượng, tính bao dung nhằm cảm hoá người mắc lỗi, đồng thời có sức thu phục nhân tâm...
Chắc khi ấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy nghĩ, cân nhắc kỹ hoàn cảnh, trình độ tác phong của Nguyễn Sơn để chọn phương án thích hợp.
- Không lấy tư cách là Chủ tịch nước, dùng quyền hành, mà với tình anh em để “bảo nhau”. Gửi người em tên là Sơn, thư của người anh có cùng họ Nguyễn, không phải là mệnh lệnh mà là một bài thơ “tặng”, coi như không hay biết việc gì, không đề cập gì, chỉ nói ý cho họ hiểu lỗi lầm của họ.
- Khen Nguyễn Sơn làm được như 12 chữ của Tôn Tư Mạo, nhưng khuyên phải làm tốt hơn nữa... (bằng cách thay chữ “tiểu” bằng chữ “tế”).
- Cử đặc phái viên của Chính phủ và của Chủ tịch nước là Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - một Bộ trưởng đã hoạt động cách mạng trước 1945, có quen biết Nguyễn Sơn vào khu IV chủ trì lễ phong cho Nguyễn Sơn (mà không để cho cán bộ khu “đứng ra chủ trì”).
Theo những người công tác gần Nguyễn Sơn, khi nhận được 12 chữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Sơn phải thốt lên:
- “Ông cụ khiếp thật!”
Liền đó, ông báo cho anh em trong khu Bộ chuẩn bị đón Đặc phái viên và nhận sắc phong ngay.
Thực hiện xong nhiệm vụ, tháng 6-1948, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch trở lại Việt Bắc. Chiều ngày 14 cùng tháng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổ chức một bữa cơm thân mật, mời Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tới dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có mặt trong bữa cơm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói, viết thường lấy “điển tích”, “chữ nghĩa của thánh hiền”, câu trích của các sách Luận ngữ, Đại học... hoặc nhắc lại nguyên văn, hoặc lập một mệnh đề hoàn toàn mới. Đó là một đặc điểm phong cách của Người.
Trong cách ứng xử với Nguyễn Sơn, tuy cũng là dùng “chữ nghĩa”, nhưng còn bao hàm một phong cách thuyết phục con người rất hiệu quả, kín đáo, sắc sảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phong cách đó bắt nguồn từ tư tưởng đại đoàn kết, đại hoà hợp của Chủ tịch Hồ Chí Minh: từ tư tưởng coi con người là qúy, là trọng, từ cái tâm, cái đức, cái nghĩa, cái tình của Người đối với mọi người.
Trong trường hợp với Nguyễn Sơn, cách ứng xử - phương án mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn thật chính xác, thật tối ưu.
Chỉ qua một giọt nước, ta có thể thấy được vị mặn của biển cả. Chỉ một ứng xử của Hồ Chí Minh với Nguyễn Sơn, ta có thể rút ra được nhiều bài học, nhất là trong quản lý, lãnh đạo ở thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
Sau đó ít hôm, trên một chuyến thuyền của đồng chí Phạm Ngọc Thạch xuôi dòng sông Mã ra Sầm Sơn thăm bộ đội và kiểm tra cách bố phòng... Thạch Kim nhắc lại chuyện phong tướng vừa rồi, đồng chí Phạm Ngọc Thạch nói rõ thêm: “Qùa tặng nhân dịp phong tướng của Bác cho anh Nguyễn Sơn, tuy chỉ là một tấm danh thiếp, anh Sơn đã tỏ ra rất cảm động. Riêng tôi còn thấy Bác là người chu đáo, kỹ lưỡng ít ai có, không phải chỉ trong nội dung giấy tờ, mà còn chu đáo, kỹ lưỡng trong cách làm, cách ứng xử. Bác dặn tôi khi vào tới nơi đề cập tấn phong thì đưa ngay tấm danh thiếp. Đúng như ý Bác đã sớm lường, xem xong danh thiếp, qua suy nghĩ, thái độ anh Sơn vui vẻ, nhuần nhã hẳn lên và tiếp thu một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Tôi không phải thuyết phục nhiều lời gì nữa như đã chuẩn bị trên đường đi.
Tôi nghĩ đó cũng là lời dạy bảo chí tình của Bác không những đối với một vị tướng mà cả cán bộ, nhân dân ta”.
Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Bác Hồ đã trải qua 9 mùa xuân tại chiến khu Việt Bác. Năm Ất Mùi 1955 là Tết Nguyên đán đầu tiên ở thủ đô Hà Nội sau chín năm trường kỳ kháng chiến thắng lợi. Ngày 30 tết, báo Nhân dân đăng bài Chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Năm mới, với tinh thần và cố gắng mới, chúng ta quyết làm tròn nhiệm vụ để tranh lấy thắng lợi mới trong công cuộc hoà bình. Vậy có câu đối tết nôm na:
Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ- Tam dương khai thái
Đoàn kết, thi đua, tăng gia, tiết kiệm- Ngũ phúc lâm môn”
Ngày 1 tết, Bác đi thăm công trường xây dựng đập nước Bắc Thái và công trường xây dựng tuyến đường sắt Mục Nam quan, một đơn vị quân đội và mấy gia đình nông dân ở xã. Người ở lại ăn tết với anh em công nhân và tặng công trường một số huy hiệu để làm giải thưởng thi đua.
Bác Hồ chúc Tết 1966
Tết Nguyên đán Bính Thân 1956, báo Nhân dân đăng bài Mừng xuân mới, nhớ xuân cũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Với những người cách mạng độ 30 xuân trở lên, nhớ Xuân cũ có nhiều màu, nhiều vẻ: có người mừng Xuân trong trại giam, nhà tù, có người mừng Xuân ở góc rừng, hang đá, còn những người hoạt động ở nước ngoài thì trông về cố quốc đón Xuân... Vì nghĩa cũ tình xưa, mừng Xuân trong hoà bình, nhiều cán bộ, chiến sỹ ta càng thấm thía nhớ đến đồng bào Việt Bắc". Đêm giao thừa, Bác đi thăm và chúc tết, tặng quà anh em trường thương binh hỏng mắt Hà Nội. Sáng mùng 1 tết, Bác đến chúc tết đại biểu nhân dân Hà Nội. anh chị em miền Nam tập kết, học sinh trường cán bộ dân tộc thiểu số, bà con Hoa kiều đang họp mặt mừng năm mới tại Ủy ban hành chính thành phố. 13h, Bác đến chúc tết công nhân Việt Nam, Trung Quốc, Âu Phi tại công trường xây dựng cầu Việt Trì. 15h, Bác thăm và chúc tết bà con nông dân xóm Yên Định, xã Tiền Phong, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. 18h, Người đến thăm và chúc tết cán bộ, học viên Trường bổ túc văn hoá cán bộ miền Nam.
Tết Nguyên đán Đinh Dậu 1957, buổi sáng 30 tết, Bác tiếp Đoàn nghệ thuật kinh kịch Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc tại Phủ Chủ tịch. Buổi chiều Bác tiếp các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước đến chúc tết Người. Buổi tối, Bác đi thăm 5 gia đình công nhân ở khu lao động nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy điện Bờ Hồ ở An Dương, sau đó Bác đến thăm và chúc tết các gia đình: cụ Nguyễn Thị Khánh, quê ở Thừa Thiên, có 6 con đi bộ đội trong đó có liệt sĩ Nguyễn Khắc Vĩ hy sinh ở Điện Biên pbủ; anh Phan Đăng Kỳ, cán bộ miền Nam tập kết; bà Thóc, một goá phụ nghèo một mình nuôi 4 con nhỏ ăn học. Sáng 1 tết, Bác về thăm và chúc tết một số gia đình cơ sở cách mạng cũ ở thôn Phú Gia, Phú Thượng, Từ Liêm, sau đó Người đi thăm và chúc tết một đơn vị bộ đội bảo vệ Thủ đô. Sau đó Bác đến thăm trại trẻ mồ côi Kim Đồng ở Thanh Oai, Hà Tây; thăm công trường xây dựng số 4 và thăm cảnh nhân dân Thủ đô vui đón tết
Tết Mậu Tuất 1958, cuối buổi chiều 30, Bác đi thăm Miến Điện về đến Hà Nội nên sáng 1, Bác mới đi chúc tết một số cơ quan đơn vị trên địa bàn Thủ đô như: nhà máy cơ khí Hà Nội, Khu Việt Nam học xá, nhân dân xã Việt Hưng huyện Gia Lâm, gặp gỡ với cán bộ miền Nam tập kết tại câu lạc bộ Thống Nhất, thăm Hội quán Hoa kiều ở phố Hàng Buồm. Người cũng đi thăm một đơn vị quân đội và gửi quà tới anh chị em Trường thương binh hỏng mắt.
Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 1959, Bác đang thăm Liên Xô nên Người đến dự bữa cơm tất niên 30 tết do cán bộ Việt Nam đang công tác ở Liên Xô tổ chức và dự liên hoan đón giao thừa với các cháu lưu học sinh tại Matxcơva
Tết Nguyên đán Canh Tý 1960, báo Nhân dân đăng bài Mừng tết nguyên đán như thế nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu lên những việc đáng chê, đáng khen trong việc ăn tết, bài báo kết luận:
" Trăm năm trong cõi người ta
Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan
Mừng Xuân, Xuân cả thế gian
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân"
Đêm giao thừa, Bác đi thăm và chúc tết 5 gia đình ở Hà Nội: Trần Công Tốt, công nhân nhà máy đèn; Trương Từ Thức, công an chữa cháy; Bùi Xuân Bồng, gia đình công giáo; bác sỹ Đinh Văn Thắng, giáo sư trường Đại học y dược; nhà công thương Bùi Hưng Gia. Sáng 1 tết, Bác tiếp đoàn đại biểu Việt kiều ở Thái Lan mới về nước đến thăm và chúc tết Người.
Tết Nguyên đán Tân Sửu 1961, ngày 30 tết, Bác dự cuộc gặp mặt của Hội đồng Chính phủ nhân dịp cuối năm. Người nói chuyện về tầm quan trọng của việc quản lý kinh tế, tài chính và sự cần thiết tổ chức kiểm tra ở các Bộ, về ý thức kỷ luật chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghị quyết của Hội đồng Chính phủ. Buổi tối, Bác đi thăm và chúc tết: một công nhân nhà máy gỗ Cầu Đuống; một cán bộ công đoàn nhà máy cơ khí Hà Nội; một Việt kiều mới về nước; một xã viên HTX thủ công nghiệp người Hoa; gia đình bác sỹ Hồ Đắc Di và gia đình giáo sư Tôn Thất Tùng. Đúng giao thừa, qua đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời chúc tết đồng bào cả nước: "Năm nay là năm Sửu, các cụ ta quen gọi là Tết con trân. Trâu thì cày giỏi mà chọi cũng hăng. Toàn dân ta đoàn kết đấu tranh thì chúng ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Ngày mùng 1 tết, Bác đi thăm và chúc tết cán bộ, chiến sĩ một đơn vị công an nhân dân vũ trang, một đơn vị bộ đội bảo vệ Thủ đô; cán bộ , công nhân nhà máy dệt kim Đông xuân, nhà máy rượu Hà Nội; nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo và nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà. Người còn đi thăm và chúc tết nhân dân thôn Khuyến Lương (Thanh Trì).
Tết Nguyên đán Nhâm Dần 1962, chiều 30 tết, Bác dự liên hoan tất niên với con em cán bộ văn phòng Trung ương Đảng. Buổi tối, Bác cùng với ông Nguyễn Lam (Phó bí thư Thành uỷ Hà Nội), Trần Duy Hưng (Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hà Nội), Nguyễn Khai (Uỷ viên dự khuyết TƯ Đảng) đến Câu lạc bộ thiếu nhi vui tết với các cháu. Sau đó Người đi thăm và chúc tết các gia đình: công nhân Nguyễn Văn Mộc, chiến sỹ thi đua 5 năm liền của nhà máy cao su Sao Vàng; cụ Đỗ Văn Diệu, uỷ viên ban đại diện phụ lão khu phố Hai Bà Trưng; giáo sư thạc sỹ Đặng Văn Chung, phó Giám đốc trường Đại học Y dược; ông Dương Kỳ Hiệp, cán bộ miền Nam tập kết; ông Vương Tước Cường, công nhân Hoa kiều; nhà tư sản Nguyễn Chương Hồng, Giám đốc xưởng cơ khí công ty hợp doanh Đồng Tháp và một số gia đình lao động nghèo ở phố Lý Thái Tổ. Tiếp đó, Người đến thăm cán bộ, công nhân Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đang chuẩn bị cho chương trình phát thanh đặc biệt đêm giao thừa. Ngày 1 tết, Bác đến chúc tết tại công trường nhà máy bê tông đúc sẵn Chèm, HTX nông nghiệp Đại Thắng, Từ Liêm và một số đơn vị bộ đội ở Hà Nội như Đại đoàn 109, Trung đoàn phòng không 220. Buổi chiều, Người đến thăm phòng trưng bày văn học và dự cuộc ngâm thơ mừng xuân của các cụ phụ lão, Người mừng tuổi các cụ hai câu thơ: Tuổi già nhưng chí không già; Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh…. Sáng 2 tết, Bác xuống Hải Phòng thăm và chúc tết các cháu trường học sinh miền Nam.
Giáp tết Nguyên đán Quý Mão 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đón đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Tiệp Khắc sang thăm Việt Nam tại sân bay Gia Lâm. Nhân ngày tết cổ truyền của nhân dân ta, Người bày tỏ niềm vui mừng qua hai câu thơ:
" Xuân này, Xuân lại thêm Xuân
Nước non xa, anh em gần, vui thật là vui".
Sáng 30 tết, Bác mặc bộ đồ gụ nâu, khoác áo mưa vải bạt, đeo kính trắng, cổ quàng khăn, chân đi dép cao su cùng hai cán bộ cảnh vệ thăm chợ Đồng Xuân và hỏi thăm giá các mặt hàng. Chiều, Bác hội đàm với đoàn đại biểu Tiệp Khắc. Tối, Bác mời cơm Chủ tịch BCH TƯ Đảng cộng sản Tiệp Khắc, phu nhân và đoàn đại biểu Tiệp Khắc đang ở thăm nước ta. Sau đó, Người đi thăm và chúc tết một số gia đình ở Hà Nội: anh hùng lao động công nghiệp Mai Đình Cường; cụ Võ Thị Xuân 72 tuổi; ông Phạm Công, Việt kiều mới về nước; nhà tư sản dân tộc Nguyễn Văn Thức; ông Hồ Đắc Điềm, nhân sỹ trí thức. Sáng 1 tết, Bác cùng đoàn đại biểu Tiệp Khắc tiếp đại diện TƯ Đảng, Chính phủ, Quốc hội đến Phủ Chủ tịch chúc tết. Sau đó Bác đi chúc tết cán bộ, công nhân nhà máy ô tô Hoà Bình, bà con HTX Huỳnh Cung (Thanh Trì), một đơn vị bộ đội bảo vệ Thủ đô, đơn vị cảnh sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và một đơn vị cảnh vệ thuộc Bộ Công an.
Tết Nguyên đán Giáp Thìn 1964, ngày 30 tết, Bác tiếp đoàn đại biểu thanh niên Đức và sau đó đi chúc tết cán bộ, chiến sỹ Sở Công an Hà Nội. Buổi tối, Người đến thăm toà soạn báo Tân Việt Hoa và chúc tết các chuyên gia Trung Quốc đang họp mặt mừng xuân. Sau đó, Người đến thăm và chúc tết cán bộ công nhân tại khu tập thể Cao-Xà-Lá, khu tập thể cán bộ miền Nam tập kết ở phố Phan Đình Phùng và một số gia đình: Phan Huy Nhật, công nhân nhà máy nước; Nguyễn Văn Tá, trưởng ban bảo vệ khu phố; Nguyễn Xiển, tổng thư ký đảng Xã hội; giáo sư bác sỹ Trần Hữu Tước; Việt kiều Phan Văn Chúc. Sáng 1 tết, Bác đến chúc tết cơ quan huyện uỷ Đông Anh, cán bộ công nhân trạm biến thế điện Lỗ Khê và HTX Lỗ Khê có thành tích trong sản xuất và tiết kiệm. Sau đó, Người đến thăm cán bộ chiến sĩ trung đoàn phòng không 260 bảo vệ Thủ đô; cán bộ, chiến sĩ sở công an Hà Nội.
Nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 1965, sáng ngày 29 tết, Bác di thăm và tham gia trồng cây với đồng bào Cổ Loa (Đông Anh). Sau đó Người tham gia trồng cây với bà con nông dân Phú Diễn (Từ Liêm). Buổi tối, Người đọc thơ chúc tết để Đài phát thanh ghi âm phát đêm giao thừa. Sớm mùng 1 tết, Bác về thăm tỉnh Quảng Ninh. Sau khi nói chuyện với hơn hai vạn đại biểu các dân tộc trong tỉnh tại sân vận động Hòn Gai, Người đến thăm cán bộ công nhân Uông Bí và mỏ than Vàng Danh. Trên đường đi, Người ghé thăm, chúc tết Đoàn địa chất số 3 và gia đình ông Trần Mộc Sinh, xã viên HTX Khe Cát (Yên Hưng).
Ngày 30 tết Bính Ngọ 1966, Bác tới thăm và chúc tết các chuyên gia Trung Quốc đang làm việc tại Hà Nội. Báo Nhân dân đăng lời chúc đầu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi nhân dân Mỹ:" Nhân dân Việt Nam rất tha thiết với hoà bình, nhưng hoà bình thật sự không thể tách khỏi độc lập thật sự. Vì đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, cho nên nhân dân Việt Nam phải chống lại để bảo vệ độc lập và gìn giữ hoà bình". Sáng sớm 1 tết nguyên đán, Bác đi thăm và chúc tết cán bộ, chiến sỹ Đại đội 27, bộ đội quân khu III, sau đó Bác về thăm một đơn vị bộ đội phòng không bảo vệ đê Mai Lĩnh. Người cũng đến thăm trường Kim Đồng và HTX nông nghiệp Văn Phú, Hoài Đức, Hà Tây. Cùng ngày Người chụp ảnh kỷ niệm với các anh hùng, chiến sỹ thi đua quân giải phóng miền Nam đang thăm miền Bắc.
Tết Nguyên đán Đinh Mùi 1967, buổi chiều 30 tết, Bác đến thăm và chúc tết cán bộ nhân viên trong phái đoàn thường trực Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hà Nội, Người chia quà tết cho các cháu nhỏ và anh chị em trong phái đoàn. Sáng 1 tết, Bác đi thăm và chúc tết các đơn vị bộ đội phòng không và không quân bảo vệ Thủ đô. Cùng ngày Người đến thăm và chúc tết cán bộ, nhân dân xã Tam Sơn, Tiên Sơn, Hà Bắc. Sáng 2 tết, Bác về thăm HTX Tảo Dương, Thanh Oai, Hà Tây
Trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân 1968, Bác không ở trong nước vì từ ngày 31.12. 1967, Bác đã sang Trung Quốc để chữa bệnh ở một địa điểm gần Bắc Kinh nên Người đón tết bên nước bạn. Đúng giao thừa, Người và đồng chí thư ký mở đài phát thanh nghe thơ chúc tết và đợi tin của cuộc tổng tấn công, nổi dậy của quân và dân miền Nam
Ngày 30 tết Nguyên đán Kỷ Dậu 1969, Bác gửi tặng lẵng hoa cho một số cơ quan, khu phố ở Hà Nội và một số đơn vị vũ trang bảo vệ Thủ đô. 6h30 sáng 1 tết, Bác đi thăm binh chủng PK-KQ ở Bạch Mai và sau đó trồng cây ở Vật Lại (Ba Vì, Hà Tây). Buổi chiều, Người và Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời cơm nữ anh hùng quân giải phóng miền Nam Tạ Thị Kiều.
VƯỜN RAU, AO CÁ CỦA BÁC
Dưới những vòm cây xanh phía sau Phủ Chủ tịch là một mái nhà sàn nho nhỏ, xinh xắn. Dòng người vào thăm lặng đi trong bồi hồi, xúc động. Căn phòng thanh bạch đơn sơ, thoảng mùi hương vườn. Tất cả như nói với đồng bào xa gần rằng Bác vừa đi công tác đâu xa, nhưng Người cũng còn kịp ra ao vỗ gọi cho đàn cá lên ăn. Nhìn đàn cá chen nhau tìm mồi, cạnh đó là vườn rau tươi tốt, dễ gợi cho mọi người nhớ về những ngày Bác sống ở chiến khu Việt Bắc.
Cuộc sống ở Việt Bắc khó khăn gian khổ nhiều. Tuy vậy dù bận đến đâu Bác cũng không quên nhắc nhở, động viên các cán bộ tích cực tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống, giảm bớt khó khăn. Ngày ngày, sau giờ làm việc lại thấy Bác đi tăng gia. Quanh khu vực Bác ở, mấy luống rau xanh, vài hốc bầu bí mọc lên là niềm vui, nguồn thúc đẩy anh em cùng làm theo Bác. Rau của Bác và các đồng chí cán bộ trồng tốt, nhiều khi ăn không hết, Bác lại nhắc đem sang tặng các cơ quan bên cạnh.
Khi về sống giữa Thủ đô, Bác vẫn giữ nếp quen lao động.
Năm đầu mới hoà bình có biết bao công việc bận rộn, nhưng Bác vẫn tranh thủ thời gian để tăng gia. Khu vườn trong Phủ Chủ tịch, lúc đầu, ngoài những chỗ trồng cây cũ còn có những khoảng đất bỏ trống, cỏ mọc um tùm. Thấy vậy, Bác bảo các đồng chí cán bộ:
- Bác cháu ta nên tổ chức khai hoang để lấy đất trồng rau ăn và trồng hoa cho đẹp.
Nghe lời Bác, buổi chiều nào mấy Bác cháu cũng vác cuốc ra vườn. Một thời gian sau, thay cho những đám cỏ hoang trước kia là những luống rau bắp cải, su hào xanh tươi mơn mởn. Trước ngôi nhà ở đã thấy các loại hoa khoe sắc, toả hương thơm ngào ngạt, trông thật vui mắt.
Cạnh nhà Bác ở còn có một ao tù cạn nước. Một lần, sau khi đi tưới rau về, Bác chỉ xuống ao vui vẻ bảo:
- Các chú sửa cái ao cạn này đi để nuôi cá thì rất tốt.
Theo ý Bác, mấy hôm sau các đồng chí cảnh vệ đã bắt tay vào sửa ao. Hàng ngày Bác thường ra động viên mọi người làm việc, Bác còn đem cả thuốc lá ra đưa tận tay cho từng người.
Công việc gần xong, Bác bảo:
- Ao đào sâu thế này Bác cháu ta sẽ thả được nhiều loại cá, như thế là tận dụng được thức ăn, không phí. Còn ở quanh ao, các chú thấy nên trồng cây gì cho đẹp?
Mọi người bàn tán sôi nổi. Người thì nêu ý kiến nên trồng hoa, người lại bàn trồng dừa, có người lại bảo trồng chuối… Mỗi người một ý. Nghe xong, Bác ôn tồn nói:
- Ý các chú đều hay cả, nhưng theo Bác thì ở xung quanh ta nên trồng râm bụt, cạnh bậc lên xuống ao trồng dừa, Bác cháu ta lại nhớ đến miền Nam.
Một thời gian sau, dừa và râm bụt đã lên xanh. Dưới ao, từng đàn cá bơi lội tung tăng. Chiều chiều, sau giờ làm việc, Bác ra ao cho cá ăn. Sau tiếng vỗ tay nhè nhẹ của Bác, cá nổi lên tranh nhau đớp mồi.
Cá trong ao được Bác chăm sóc rất chóng lớn. Hàng năm cứ đến dịp Tết hoặc ngày lễ, Bác lại nhắc đánh cá để cho anh em cải thiện.
Đến thăm nhà Bác, đứng trước ngôi nhà, lòng ta bồi hồi xúc động bao nhiêu thì khi ra thăm vườn cây ao cá, thấy rau xanh tốt, cá trong ao vẫn sinh sôi nảy nở, từng đàn cá nổi đặc trên mặt ao đòi ăn rất đúng giờ, ta thấy vui vui. Và chính từ nơi đây, những chú cá xinh xinh ở ao Bác Hồ đã và đang được nhân ra trên khắp mọi miền của Tổ quốc thân yêu.
Thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng, đây là một ao tù nước đọng, hươu, nai của Toàn quyền Đông Dương vẫn tới đây uống nước. Khi về ở và làm việc tại khu Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi ý anh em phục vụ cải tạo nơi này thành ao nuôi cá để cải thiện đời sống và làm cho môi trường thêm trong lành.
Ao rộng hơn 3000 mét vuông, nơi sâu nhất khoảng 3 mét. Trong ao thả nhiều loại cá khác nhau như: trắm, chép, mè, rô phi... để có thể tận dụng nguồn thức ăn ở các tầng nước.
Hàng ngày, sau giờ làm việc buổi chiều Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ra cầu ao trước nhà sàn cho cá ăn, thức ăn chủ yếu cho cá là cám và những mẩu bánh mỳ, cơm được anh em phục vụ phơi khô đựng vào chiếc hộp để cạnh cầu ao .Trước khi cho cá ăn, Người thường vỗ tay gọi cá, lâu dần tiếng vỗ tay của Người đã cho cá một phản xạ, hễ cứ nghe tiếng vỗ tay cá lại bơi về cầu ao. Bác nhớ đặc điểm của từng con cá chép đỏ nên có lần sau khi đi công tác về, Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác - xem tại sao không thấy con cá gáy đỏ của Bác về ăn như mọi khi? Mấy hôm sau Bác rất vui kể rằng con cá gáy đỏ lại đã trở về rồi. Bác còn chú ý bảo vệ đàn cá, những năm trời rét đậm Bác nhắc anh em kiếm bèo tây về ngăn vào một góc ở hướng Bắc để che gió lùa và cho cá có nơi trú ẩn.
Cá trong ao được dùng để cải thiện bữa ăn cho anh em trong cơ quan, tiếp khách trong và ngoài nước. Hàng năm, vào những ngày lễ, ngày tết cổ truyền, hoặc vào dịp sinh nhật mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhắc anh em phục vụ đánh cá để biếu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tặng anh em trong đơn vị bảo vệ và các gia đình trong cơ quan có cháu nhỏ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mong muốn các địa phương trong cả nước phát triển nghề nuôi cá để cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế từng hộ nông dân, góp phần nâng cao đời sống của toàn xã hội.
Năm 1959, hợp tác xã Tiền Phong- Yên Sở, Thanh Trì, Hà Nội là đơn vị đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng gần 100 con cá rô phi để nuôi. Năm 1979, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đã phát động phong trào "Ao cá Bác Hồ". Sau cuộc phát động, cá giống từ ao cá trong khu Phủ Chủ tịch được gửi cho nhiều địa phương và một số đơn vị thuộc lực lượng vũ trang từ Bắc vào Nam, từ miền núi đến vùng đồng bằng.
Việc phát triển "Ao cá Bác Hồ" nhận được sự hưởng ứng của nhân dân cả nước, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc và đem lại hiệu quả thiết thực về kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Nhà sàn Bác Hồ
Hầu hết các nguyên thủ của các nước trên thế giới, các chính khách và đoàn du lịch nước ngoài khi đến Hà Nội đều vào thăm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Đồng bào Việt Nam từ nước ngoài về nước, nhân dân từ mọi miền Tổ quốc khi đến Thủ đô cũng không thể không dành thời gian vào thăm nhà sàn Bác Hồ. Đi theo con đường hẹp trải sỏi hai bên trồng xoài, chúng ta sẽ tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Bao quanh nhà là hàng rào dâm bụt đỏ tươi, trước nhà là ao cá rộng rãi, thoáng mát. Đó là ngôi nhà Bác Hồ đã ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời. Ngôi nhà nhỏ dưới bóng mát của vườn cây, bên cạnh những công trình to lớn, bề thế ở ngay giữa lòng Thủ đô Hà Nội cho chúng ta cảm nhận được cuộc sống giản dị, thanh bạch cũng như ý chí của vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc trong sự phấn đấu vươn lên chiến thắng những quyến rũ, ham muốn đời thường, hướng vào mục đích cao cả: độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Như lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng cảm nhận: “Cái nhà sàn của Bác chỉ vẻn vẹn có vài ba phòng, trong lúc tâm hồn của Bác lộng gió thời đại thì cái nhà nho nhỏ đó luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn, một đời sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao”.
Năm 1958, sau gần 4 năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, cơ sở vật chất ở miền Bắc Việt Nam bước đầu được củng cố và phát triển, đời sống nhân dân đã phần nào được nâng cao, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị mong muốn xây dựng một ngôi nhà mới để Chủ tịch Hồ Chí Minh có nơi ở, làm việc được tốt hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng ý với ý định này sau buổi gặp mặt đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Bắc tại Phủ Chủ tịch và sau chuyến đi thăm một số địa phương của tỉnh Thái Nguyên. Người nói với anh em: Trung ương đề nghị xây cho Bác một ngôi nhà mới, Bác nghĩ: nên làm một căn nhà nho nhỏ ở phía bên kia bờ ao theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Bác đã từng ở trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nguyên Cục phó Cục Thiết kế kiến trúc thuộc Bộ Giao thông thuỷ lợi được trao nhiệm vụ thiết kế và chỉ đạo xây dựng ngôi nhà. Đoàn 5 Cục Doanh trại (nay là Cục Kiến thiết cơ bản) thuộc Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam chịu trách nhiệm thi công. Ông Nguyễn Văn Ninh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đến trao đổi về thiết kế, cách bố trí cụ thể của ngôi nhà như cần làm hành lang chung quanh để khi có các đồng chí lãnh đạo đến làm việc với Bác có lối đi và khi Bác làm việc, các đồng chí phục vụ đi lại không ảnh hưởng đến Người. Người nhắc nhở nhà nên làm bằng gỗ bình thường, gỗ loại một để dành làm tà vẹt đường sắt và trường học. Dưới tầng trệt, Người bảo làm bệ xi măng thấp ở chung quanh, trên có lát ván tạo thành hàng ghế băng dài cho các cháu thiếu niên vào chơi có đủ chỗ ngồi.
Ngày 15/4/1958, ngôi nhà sàn được khởi công xây dựng. Anh em cán bộ, chiến sĩ đã làm việc khẩn trương để ngôi nhà kịp trở thành món quà mừng sinh nhật lần thứ 68 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 17/5/1958, ngôi nhà được khánh thành. Nhân dịp này Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức một buổi liên hoan nhỏ để cảm ơn kiến trúc sư và anh em thi công, sau đó Người chuyển về ở và làm việc tại nhà sàn.
Ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng bằng gỗ bình thường, thiết kế theo kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Việt Bắc: nhà hai tầng, xung quanh có mành che, tầng dưới để thoáng. Nét kiến trúc thanh nhã, trang trí không cầu kỳ này khiến công trình trở thành một kiến trúc độc đáo, mang sắc thái riêng nhưng rất hài hoà với thiên nhiên và các công trình kiến trúc xung quanh. Trước nhà là một vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía ngoài là hàng rào dâm bụt gợi nhớ hình ảnh quê hương Nghệ An, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên. Trong hồ nước rộng hơn 3.000m2 trước nhà sàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nuôi cá vì theo Người nuôi cá ở đây vừa cải tạo môi trường sống trong lành, cải thiện bữa ăn hàng ngày, vừa là một cách thư giãn thú vị sau giờ làm việc khi Người cho cá ăn. Nhà sàn của Bác hoà hợp với thiên nhiên là thế đấy! Nó tạo ra nét bình dị gần gũi với mọi người dân Việt Nam ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Tầng dưới nhà sàn kê một bộ bàn ghế lớn, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc về mùa hè, nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách đầu ngành hoặc các địa phương và cũng là nơi Người tiếp thân mật các cán bộ, chiến sĩ miền Nam. Trên bàn làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn những cuốn sách Người đang đọc vào những ngày cuối cùng. Trong đó, có những cuốn sách nói về gương người tốt, việc tốt của các giới, các ngành được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Bên cạnh những cuốn sách "Người tốt việc tốt" là sách của V.I Lênin viết về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, sách của các tác giả nước ngoài viết về cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở ngay trong lòng nước Mỹ. Trên bàn làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có chiếc khay đá màu đen, hình con thuyền mà Người thường để bút, đó là kỷ vật của Tổng thống nước cộng hoà nhân dân Cu Ba Ôt-xvan-đô Đoóc-ti-cốt tặng Người năm 1967. Món quà là biểu hiện cho tình bạn, tình đồng chí thân thiết giữa hai nhà lãnh đạo cũng như tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam- Cu Ba.
Tại ngôi nhà sàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thân mật một số đoàn khách quốc tế. Những buổi tiếp khách quốc tế ở nơi đây mang một ý nghĩa thật đặc biệt, diễn ra trong bầu không khí cởi mở, chân tình, không bị ràng buộc bởi nghi lễ ngoại giao. Đây chính là nét độc đáo trong phong cách giao tiếp của Người và đã để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế.
Phía cuối phòng tầng dưới nhà sàn có ba chiếc máy điện thoại. Chiếc máy màu xanh Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Bộ Chính trị, hai máy màu đen Người làm việc với Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Phòng không- Không quân. Mỗi lần nhận được tin quân và dân ta bắn rơi máy bay, bắn chìm tàu chiến của đế quốc Mỹ, Người đều kịp thời động viên, khen thưởng. Chiếc mũ sắt để bên cạnh được anh em bảo vệ mang theo trong những lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm các địa phương, đơn vị bộ đội... để phòng tránh những mảnh bom, đạn. Gần đó là chiếc ghế xích đu (còn gọi là ghế chao) bằng mây, Người thường nghỉ ngơi vào buổi trưa hoặc sau giờ làm việc. Xung quanh tầng dưới nhà là những bệ xi măng bên trên lát ván gỗ được làm theo gợi ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để mỗi lần các cháu thiếu nhi vào thăm Người có đủ chỗ ngồi. Người còn nhắc anh em phục vụ đặt thêm bể cá vàng cho các cháu vui hơn.
Tầng trên nhà sàn có hai phòng: phòng làm việc và phòng ngủ. Mùa đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường làm việc ở trên nhà. Hiện nay, trên bàn làm việc vẫn còn những tài liệu Người đang xem dở. Trên giá sách đặt trong vách ngăn giữa phòng làm việc và phòng ngủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được sắp xếp rất ngăn nắp, khoa học. Bên cạnh sách kinh điển của C.Mác, F.Ăngghen, V.I Lênin là những cuốn sách về các lĩnh vực triết học, kinh tế, lịch sử, văn học nghệ thuật, khoa học... có cả những cuốn sách của các tác giả nước ngoài tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh với những lời đề tặng đầy tình cảm quý mến và trân trọng. Ngăn dưới cùng giá sách là chiếc máy chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường tự đánh máy các bài viết, văn bản, thư gửi tới các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác, sản xuất, chiến đấu, điện mừng, lời chia buồn tới nhân dân và bạn bè thế giới.
Tại phòng ngủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiện nghi sinh hoạt cũng đơn giản như ở mọi gia đình người dân Việt Nam thời đó. Chiếc giường gỗ mùa hè trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm và chăn bông. Cạnh đó là một lò sưởi điện nhỏ, Người dùng những hôm trời giá lạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường làm việc rất khuya. Trên bàn làm việc ở phòng ngủ vẫn còn một số sách, tạp chí lưu lại bút tích của Người. Trong đó có bài nói về vấn đề cải cách chữ quốc ngữ, bài "Lênin nói về vấn đề giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ trẻ” của tạp chí Tuyên huấn... Đặt cạnh đó là chiếc đài bán dẫn - món quà của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh và chiếc mũ cát Người thường dùng trong những chuyến đi công tác trong nước và nước ngoài.
Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Người đang đọc: "Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Chiếc blôc lịch đang mở ngày 17/8/1969, ngày cuối cùng Bác làm việc ở nhà sàn này, cũng như bên dưới nhà sàn, chiếc đồng hồ vẫn đều đặn chạy khiến cho chúng ta cảm thấy như Người vẫn hiện diện ở nơi đây, thật thân thiết và gần gũi với tất cả chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tại ngôi nhà sàn trong 11 năm cuối cùng cuộc đời Người. Những tài liệu, hiện vật ở nơi đây đã thể hiện đầy đủ, rõ nét cuộc sống, tư tưởng, đạo đức và phong cách làm việc của một lãnh tụ hết lòng vì nước, vì dân, vì sự nghiệp hoà bình, hữu nghị và tiến bộ của các dân tộc trên thế giới.