Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 0
Số lượng câu trả lời 4386
Điểm GP 1124
Điểm SP 1589

Người theo dõi (14)

anhthu
Jackson Williams
Sully
Phong (acc phụ)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Tham khảo!

 

* Luận điểm 1: Từ Hải với những ý chí, khát vọng vùng vẫy giữa trời đất

- “Trượng phu”: Cách gọi thể hiện sự trân trọng đối với những bậc anh hùng có tài năng, đức độ hơn người

- Hai không gian đối lập:

+ “Hương lửa đương nồng”: Mái ấm gia đình với tình yêu, hạnh phúc ngọt ngào

→ Không gian nhỏ hẹp, gắn với thói thường.

+ “Bốn phương”, “trời bể mênh mang”: Không gian vũ trụ mênh mông, rộng lớn nâng tầm vóc người anh hùng lên tầm vũ trụ.

→ Thể hiện ước mơ, khát vọng lớn lao của người anh hùng.

→ Từ Hải quyết tâm từ bỏ không gian gia đình ấm êm để đến với không gian vũ trụ để vùng vẫy với những khát vọng.

- Tính từ “thoắt”: Sự mau lẹ, quyết đoán, tự tin không phân vân

→ Sự thức dậy của lí trí, khí phách anh hùng vượt lên những điều bình thường để làm những điều phi thường.

- Ánh mắt “trông vời” và tư thế “thẳng dong”: Khắc họa hình tượng người tráng sĩ với khát vọng vùng vẫy giữa trời cao

→ Người tráng sĩ lên đường với tư thế dứt khoát, mạnh mẽ đi liền một mạch không ngoảnh lại.

* Luận điểm 2: Từ Hải với chí khí, hoài bão, lớn lao, phi thường

- Hình ảnh “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường”:

→ Thể hiện hoài bão phi thường của Từ Hải, muốn xây dựng cơ đồ của một bậc đế vương, chí khí xứng đáng tầm vóc của một bậc anh hùng.

- Hình ảnh “bốn bể không nhà” kết hợp với câu hỏi tu từ “theo càng thêm bận biết là đi đâu”

→ Cảm giác cô đơn thấp thoáng của bậc anh hùng khi thực hiện hoài bão. Nhưng càng cô đơn, quyết tâm càng lớn.

- Khoảng thời gian “một năm”: Thái độ tự tin, quyết tâm thực hiện lí tưởng anh hùng.

→ Với những hình ảnh ước lệ đã cho thấy chí khí hoài bão, khát vọng lớn lao phi thường của người anh hùng Từ Hải.

* Luận điểm 3: Từ Hải với tình yêu và khát vọng hạnh phúc phi thường

- Trước lời nói của Kiều, Từ Hải đã trách móc nhẹ nhàng:

+ “Tâm phúc tương tri”: Là người tri kỉ, hiểu rõ lòng dạ của nhau.

→ Từ Hải lấy đạo tri kỉ ra để thuyết phục Kiều ở lại, với Từ Hải Kiều không phải người vợ, người tình mà là một người tri kỉ.

+ “Nữ nhi thương tình”: Thói nữ nhi tầm thường.

→ Với Từ Hải, Kiều không phải cô gái tầm thường mà là người thông minh, sắc sảo, tinh tế.

→ Lời trách móc của Từ Hải cho thấy tình yêu của chàng đối với Thúy Kiều không phải tình cảm tầm thường mà hết sức phi thường. Đó là mối tình tri kỉ, trân quý lẫn nhau.

- Khát vọng hạnh phúc phi thường của Từ Hải:

+ “Làm cho rõ mặt phi thường”: Thực hiện được hoài bão, lí tưởng anh hùng.

+ “Rước nàng nghi gia”: Rước Thúy Kiều danh chính ngôn thuận về làm vợ, cho nàng một danh phận.

→ Từ Hải ra đi không chỉ hướng đến sự nghiệp của một bậc anh hùng mà còn hướng đến khát vọng hạnh phúc phi thường của “trai anh hùng với gái thuyền quyên”.

* Luận điểm 4: Từ Hải - con người dứt khoát, tự tin, đầy bản lĩnh

- “Quyết lời”: Lời nói dứt khoát, quyết đoán

- “Dứt áo ra đi”: Thái độ mạnh mẽ, quyết tâm, dứt khoát.

- “Gió mây bằng đã... đến kì dặm khơi”: Bút pháp lí tưởng hóa đã cực tả dáng vẻ tựa như cánh chim bằng cất mình bay thẳng vào muôn trùng dặm khơi của người anh hùng

→ Từ Hải là người có chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao cùng bản lĩnh phi thường.

* Ý nghĩa hình ảnh Từ Hải

- Thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của thời đại: chí khí, hoài bão lớn lao, khát vọng phi thường

- Là biểu tượng về khát vọng tự do và lẽ công bằng.

Câu trả lời:

Tham khảo!

 

Tiếng đàn là một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng nạn nhân của Kiều.Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không được nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh” kia không còn lý do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều sống lại dữ dội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức năng giải tỏa tâm trạng, nó có một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi nó cất lên tiếng “ca vui đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được tâm trạng đó là “muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi nó xuất hiện trước Kim Trọng, tính chất nạn nhân của nó bộc lộ theo một kiểu khác, không phải để nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới có lúc bị lừa:

Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?

Anh ta bị Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc mê lý tưởng hóa vào để lừa đấy thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn đoàn viên như thế là hỏng bét! Và có lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng là một  cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta là tri âm của Kiều, chính Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây giờ đoàn viên thì anh ta không còn là tri âm nữa. Bởi vì đôi tai của con người kiểu Kim Trọng vốn là như thế, nó quá tinh đến nỗi nghe được những âm vang từ một cõi siêu hình mà tai trần không nghe thấy được, nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm vang từ cuộc đời “quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy, khi con người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó mất đi một tri âm tự nguyện là Kim Trọng và thêm vào những kẻ tri âm bất đắc dĩ là Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.

 

Câu trả lời:

Tham khảo!

Tác giả Nguyễn Du có một loạt những bài thơ chữ Hán viết về các nhân vật lịch sử mà qua đó nhà thơ gửi gắm rất nhiều nỗi niềm tâm sự. “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ như thế. Bài thơ là tiếng nói tri âm sâu sắc của tác giả với người con gái sống cách mình trước đó 300 năm, Nguyễn Du đã mang những tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh vượt 300 năm để tìm tri âm.

Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh, của nàng ngắn ngủi và đầy những trái ngang. Di cảo của nàng còn sót lại với những vẫn thơ bị đốt dở là một bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy. Một người đa cảm như Nguyễn Du đã không thể cầm lòng khi đọc nó, nỗi thổn thức ấy đã khiến cho thi nhân viết nên những dòng tuyệt tác trong “Độc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ như là tiếng lòng nhân đạo cao cả và sâu sắc của Nguyễn Du, cảm thương cho một cuộc đời qua những vần thơ cháy dang dở.

Hai câu mở đầu tác giả đã giới thiệu về cảnh đẹp của vườn hoa bên Tây Hồ, nơi mà nàng Tiểu Thanh đã từng sống:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”

Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tẫn” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đổi hết không còn một dấu vết gì nữa. Đứng ở hiện tại Nguyễn Du bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ vừa là lời cảm khái trước vẻ đẹp của Tây Hồ bị hủy hoại nhưng cũng là những chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc đời.

Cảnh đẹp Tây Hồ cũng đã gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh một người tài hoa đã sống những năm cuối đời ở đây và gửi thân mãi mãi nơi này. Nhà thơ đã ngồi một mình bên cửa sổ, lặng lẽ cảm thương cho số phận của Tiểu Thanh. Câu thơ đã khắc vào lòng người một cảnh ngộ đơn độc không có người sẻ chia phải tìm về quá khứ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối hai con người xa lạ, vượt thời gian không gian để tri âm với nhau. Hình ảnh “ mảnh giấy tàn” là hình ảnh khơi gợi cảm hứng của Nguyễn Du đến số phận cuộc đời Tiểu Thanh:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

Son, phấn là những vật dụng trang điểm gắn liền với người phụ nữ, hình ảnh ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Hai câu thơ đã cho thấy nàng Tiểu Thanh vừa tuyệt sắc, tuyệt tài, số phận ngang trái đồng thời tác giả cũng lên án xã hội bất nhân đã không tạo cho một môi trường thực sự nhân văn tiến bộ. Điều quan trọng là Tiểu Thanh giỏi làm thơ nhưng thơ bị đem đốt và bản thân nàng yểu mệnh chết sớm. Thương cảm với nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ là Nguyễn Du trân trọng người nghệ sĩ, thấy ý nghĩa xã hội trong sự cống hiến của người nghệ sĩ.

Từ câu chuyện nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ 200 năm trước sang hai câu luận nó đã tỏa sáng cuộc đời chung của những khách văn chương:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư”.

Từ nỗi oan của Tiểu Thanh đã thành nỗi oan nỗi hận của những người tài hoa. Hận là người có sắc, có tài đều không gặp may mắn, đều đoản mệnh hoặc bị dập vùi. Nỗi hận ấy là hóa giải thành ra câu hỏi muôn đời không có lời đáp “ thiên nan vấn”. Nguyễn Du cũng tự nhận thấy mình là người có tài mà cuộc đời long đong tự nhận là thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc ý thức cả về tài năng và nỗi đau. Từ nỗi xót đau trong quá khứ đến hiện tại, trước nỗi đau của những người tài hoa trong đó có mình, tác giả đã không thể kìm nén những tâm sự của riêng mình, bật ra dưới hình thức câu hỏi tu từ, hướng về hậu thế.

Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

Ba trăm năm là khoảng thời gian xác định nhưng rất dài. Nó là khoảng thời gian đủ để mọi việc lui vào quá khứ cái còn cái mất. Cả câu thơ là hơn ba trăm năm sau liệu trên thế gian này có người nào khóc Tố Như. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nguyễn Du là con người bị bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. “ Khấp” là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông.

Bài thơ là lời ký thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời. Thời gian có thể xóa nhòa và làm biến mất đi nhiều thứ nhưng những bài thơ, vần thơ được chắt ra từ máu và nước mắt như “Độc Tiểu Thanh kí” lại thêm được luyện bởi thiên tài văn học Nguyễn Du thì chắc chắn thời gian cũng không thể làm lung lay vị trí của thi phẩm trong lòng người đọc.

Câu trả lời:

Tham khảo!

Nằm trong số những tác phẩm văn học được viết nên để ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là một tác phẩm bất hủ cùng thời gian. Tác phẩm được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai có giá trị trường tồn.

Nguyễn Trãi (sinh năm 1380 – mất năm 1442) hiệu là Ức Trai, quê ông ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Gia đình Nguyễn Trãi là một gia đình nhà nho nghèo nhưng lại giàu truyền thống yêu nước và có sự quan tâm đặc biệt với văn hóa, văn học nước nhà. Nguyễn Trãi có cha và ông ngoại đều là những người học rộng tài cao và có nhiều đóng góp cho triều đình. Cha ông là Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh còn ông ngoại của ông là Tư đồ Trần Nguyên Đán.

Noi gương thế hệ đi trước, Nguyễn Trãi cũng ra sức dùi mài kinh sử và năm 1400, ông cũng đỗ Thái học sinh và ra làm quan cho triều nhà Hồ. Đến năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta nhưng nhà Hồ không có đủ khả năng chống trả, thế nên đất nước rơi vào tay giặc, cha ông bị bắt sang Trung Quốc còn ông thì quyết định tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn để cứu nước báo thù nhà.

Với sự lãnh đạo tài tình và sự giúp sức từ những người cộng sự nhiệt thành, tài năng như Nguyễn Trãi, Lê Lợi cùng với nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi to lớn trước quân Minh. Nguyễn Trãi nhận được sự tin tưởng rất lớn từ Lê Lợi – lúc này đã trở thành vị vua đứng đầu của Đại Việt. Tuy nhiên sau đó triều đình lại lục đục, gian thần nhiễu nhương, Nguyễn Trãi quyết định về quê lánh đục tìm trong.

Thế nhưng, mong muốn ở ẩn rời xa thế sự của Nguyễn Trãi lại không trở thành hiện thực vì ông lại bị vướng vào vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên vào năm 1442, kết quả nhận án tru di tam tộc. Nỗi oan thiên cổ của ông kéo dài đến tận năm 1464 thì mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.

Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta thấy tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” ra đời gắn với hoàn cảnh đất nước ta vừa hoàn thành cuộc chiến đấu nhiều năm gian khổ chống giặc Minh xâm lược. Sau chiến thắng đó, Nguyễn Trãi chính là người thay mặt cho Lê Lợi viết nên tác phẩm nhằm mục đích tuyên bố với nhân dân cả nước về quyền độc lập dân tộc. “Đại cáo bình Ngô” được công bố vào năm 1428, đây là một bản báo cáo đã tổng kết quá trình kháng chiến giành thắng lợi và đồng thời cũng là một bản tuyên cáo trong việc thành lập triều đại mới của đất nước – triều nhà Lê.

Tác phẩm được viết bằng một thể loại đặc biệt – thể cáo. Đây vốn là thể văn nghị luận từ thời cổ ở Trung Quốc và thường được vua chúa, những người thủ lĩnh sử dụng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp hay tuyên ngôn những sự kiện trọng đại để mọi người cùng biết. Thể loại cáo thường được trình bày dưới hình thức của văn vần, văn xuôi nhưng phổ biến là văn biền ngẫu – thể văn lấy sự đối ý làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối. Cáo sử dụng lời lẽ đanh thép, lý luận sắc bén và đặc điểm quan trọng nhất là có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.

Để khẳng định nền độc lập, mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa có ý nghĩa tất yếu:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Luận đề được nêu lên cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân, nước và sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa vốn là một quan niệm trong đạo Nho nói lên cách đối nhân xử thế tốt đẹp dựa trên tình thương và đạo giữa người với người trong cuộc sống. Thế nhưng trong thời buổi có giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa biểu hiện của một người biết sống nhân nghĩa là hành động “trừ bạo” để “yên dân”. Đó chính là chân lí khách quan phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Con dân đất Việt xông pha ra chiến trường diệt giặc là điều tất yếu vì nước Việt là của người Việt, có chủ quyền độc lập riêng. Điều này đã được khẳng định chắc chắn qua lịch sử, phong tục:

“Như nước Đại Việt ta từ trước.

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia.

Phong tục Bắc Nam cũng khác.”

Qua các triều đại và cả sự hiện diện của những anh hùng hào kiệt mỗi thời:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy bên cạnh việc khẳng định nền chủ quyền, độc lập dân tộc, “Đại cáo bình Ngô” còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân ta suốt hai mươi năm dài xâm lược. Trong những ngày đầu đặt chân lên đất nước vì muốn đô hộ ta, chúng đã tỏ rõ là những kẻ xảo trá, bịp bợm:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.”

Chúng ra sức bóc lột, đẩy nhân dân ta vào chỗ hiểm nguy:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.”

Tàn ác hơn, thâm độc hơn, chúng còn sẵn sàng hủy diệt sinh mệnh của con người bằng những cách hung bạo:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”

Giặc hiện lên quá với những hình ảnh ghê rợn:

“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”

Thật sự những tội ác chất chồng mà chúng gây ra không thể nào đếm hết:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

Khi nói về tội ác của giặc, tác giả đã chọn cái vô hạn, khôn cùng của “trúc Nam Sơn”, của “nước Đông Hải” cũng để nói về cái vô hạn, khôn cùng là tội ác và sự nhơ bẩn của kẻ thù. Trong bản cáo trạng ấy, ta có thể thấy tác giả gửi gắm vào đó lúc là sự sục sôi, căm phẫn, khi lại uất hận, nghẹn ngào. Tác giả đau đớn, cất tiếng kêu oán thán: “Lẽ nào trười đất dung tha” – “Ai bảo thần nhân chịu được?” và điều đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng luôn hướng đến quyền sống của người dân, luôn lo cùng nỗi lo và đau cùng nỗi đau với nhân dân.

Với tội ác của giặc, quân dân ta đã nhất tề đồng lòng đứng lên chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập. Những người anh hùng cứu nước, và đặc biệt là vị minh soái tài ba Lê Lợi dù có xuất thân bình thường:

“Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình”

Khi chiến đấu với kẻ thù lại trải qua muôn vàn khó khăn:

“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.”

Có lúc phải đối diện với rất nhiều sự thiếu thốn về lương thực và cả lực lượng:

“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Khi Khôi Huyện quân không một đội.”

Nhưng với tinh thần “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn”, với niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã đồng lòng “gắng chí khắc phục gian nan”. Cuối cùng sau nhiều năm tháng người chủ tướng phải“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trằn trọc trong cơn mộng mị”, “băn khoăn một nỗi đồ hồi”…, quân dân ta đã đánh kẻ thù đến nỗi “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”. Ta giành được độc lập, giặc thất bại ê chề là kết cục không thể khác hơn cho cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà chúng gây ra. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là mặc dù giặc độc ác, tàn nhẫn như thế vậy mà sau biết bao đau đớn, căm hờn, ta vẫn lấy tấm lòng hiếu sinh để mở đường sống cho chúng. Như vậy, đến cuối cùng ta đã dùng tấm lòng nhân đạo để hóa giải hận thù. Thế mới thấy lúc này cách hành xử với tội ác của giặc đã khiến cho tinh thần nhân nghĩa của ta vươn lên một tầm cao mới.

Cuối cùng nền độc lập, tự do được xác lập lại cho đất nước sau rất nhiều đau thương chính là kết quả tốt đẹp cho một dân tộc chiến đấu anh hùng và biết sống nhân nghĩa. Thuyết minh về Bình ngô đại cáo không thể quên khi Nguyễn Trãi thay Lê Lợi bố cáo rộng rãi cho quần chúng nhân dân:

“Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục sạch làu.”

Lời tuyên bố cho thấy một niềm tin mãnh liệt của tác giả về nền thái bình vững chắc, lâu bền của dân tộc. Sau những ngày tháng sống cảnh áp bức, bóc lột tối tăm, mờ mịt, quân dân ta đã tìm lại được ánh sáng cho sự sống của chính đất nước mình. Hai câu kết của bài cáo vang lên cũng chính là sự khép lại của thời kì chiến đấu oanh liệt và sự mở ra của một giai đoạn tươi sáng, phát triển:

“Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.”

Viết tác phẩm, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối viết có sự kết hợp uyển chuyển giữa văn chương và chính luận. Ngoài ra, khi viết tác phẩm, Nguyễn Trãi còn sử dụng giọng văn có sự biến đổi linh hoạt vô cùng, hình ảnh sử dụng trong bài cáo lại sinh động và vô cùng hoành tráng.

Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng lối liệt kê hình tượng phong phú, đa dạng, thể hiện sự tương phản trong kháng chiến giữa ta và địch. Đoạn viết về cuộc khởi nghĩa của ta có thể xem là một trong những đoạn thơ đặc sắc về nghệ thuật của “Đại cáo bình Ngô”. Nói như vậy là vì nhà thơ đã rất thành công trong việc thể hiện những phương thức nghệ thuật về liệt kê hình ảnh và thủ pháp tương phản đối lập. Ta thì “điều binh thủ hiểm”, “chặt mũi tiên phong”, “sai tướng chẹn đường”, “tuyệt nguồn lương thực”, “bốn mặt vây thành”; địch thì “động binh không ngừng”, “đem dầu chữa cháy”. Lực lượng của ta thì “sĩ tốt kén người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” còn nhìn quân giặc thì chúng lại xuất hiện trong hình ảnh “thất thế”, “cụt đầu”, “đại bại tử vong”, “cùng kế tự vẫn”…

Có thể thấy, với những giá trị trên đây, “Đại cáo bình Ngô” xứng đáng là một tác phẩm lưu danh sử sách đến muôn đời. Bài cáo không chỉ khẳng định hùng hồn nền độc lập, chủ quyền của đất nước mà còn góp phần thể hiện cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta…