Cảnh ngày xuân- Nguyễn Du

thanh1
Xem chi tiết
Ami Ngọc
24 tháng 5 2018 lúc 22:12

Thanh minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người Việt Nam - bổn phận của con cháu tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước. Đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa, gọi là đền đáp phần nào ơn sinh thành tạo dựng của tổ tiên.

Dù ai đi đâu, ở đâu đến ngày Thanh minh âm lịch cũng cố gắng về với gia đình để được đi tảo mộ, để cùng nhau ngồi bên mâm cơm sum họp gia đình. Những ngôi mộ được người nhà dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là những tâm đức của người đang sống đối với người đã khuất.

Con cháu dù làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này để tưởng nhớ tổ tiên và sum họp với gia đình.

Phong tục làm cỏ các phần mộ (lễ tảo mộ), sửa sang, thắp hương, đặt hoa quả thành kính tưởng nhớ ông bà tổ tiên là những hoạt động không thể thiếu trong ngày lễ quan trọng này.

Mk chỉ làm đc thế này thui !

Bình luận (0)
Lãnh Huyết
Xem chi tiết
Tử Đằng
9 tháng 7 2018 lúc 13:10

Ngòi bút Nguyễn Du nghiêng về bên hội hơn vì "Cảnh ngày xuân" được miêu tả qua điểm nhìn và tâm trạng của hai chị em Thúy Kiều. Sự trẻ trung trong tâm hồn hai cô hợp với cảnh hội hơn là lễ.

Bình luận (0)
Hoàng Thị Huyền Nhi
Xem chi tiết
Hoàng Thị Huyền Nhi
14 tháng 11 2017 lúc 20:40

ngữ văn lớp 7 đó các bạn mik nhấn lộn

Bình luận (0)
Girl _ Trẻ _ Nghé
Xem chi tiết
Nguyễn Thu Hương
3 tháng 11 2017 lúc 8:45

Đề 1:

Câu 1:

4 câu thơ thuộc phần I: Gặp gỡ và đính ước. Là 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (nhan đề đoạn trích do người biên soạn sách đặt)

Câu 2:

a. Câu thơ sử dụng biện pháp so sánh.

b. Câu thơ có thể hiểu theo 2 cách:

(1) Những cánh én chao liệng trên bầu trời xuân như thoi đưa.

(2) Thời gian trôi rất nhanh, chẳng khác nào thoi đưa.

=> Hiểu theo cách thứ 2 sẽ logic hơn với câu thơ sau "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". ( Mùa xuân có ba tháng - chín mươi ngày, thì đã trôi đi được quá nửa).

=> Tác dụng của câu thơ: Vừa gợi được dấu hiệu của mùa xuân (cánh én) lại vừa gợi được bước đi của thời gian.

Câu 3:

a. Chữ "điểm" hay ở chỗ: Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ: Thông thường sẽ là: Cành lê điểm một vài bông hoa trắng. Còn tác giả lại viết là: "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa" => Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, chỉ đặc tả sắc trắng của một vài bông hoa lê mà gợi ra được sự tinh khiết, trong trẻo của cả bức tranh mùa xuân.

b. Câu thơ cổ của Trung Quốc:

"Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa"

=> Cả câu thơ của Nguyễn Du và câu thơ cổ đều sử dụng nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, đảo ngữ để đặc tả sắc trắng tinh khiết, tinh khôi của những bông hoa lê. Trên nền cỏ xanh căng tràn sức sống kia là những bông hoa lê nhỏ nhắn, trong ngần đang khoe sắc.

=> tranh hoa cỏ mùa xuân đều được khắc họa đẹp, đầy ấn tượng

Bình luận (1)
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
8 tháng 8 2019 lúc 16:12

Đề 2 :

Câu 1 :

Hiểu biết về Nguyễn Du :

a. Bản thân

– Nguyễn Du sinh ngày 3/1/1766, mất ngày 16/9/1820, tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

– Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Do sinh ra ở Thăng Long nên thời niên thiếu chủ yếu sống ở Thăng Long.

– Thuở nhỏ ông sống trong nhung lụa, giàu sang nhưng 9 tuổi đã mồ côi cha, 12 tuổi mồ côi mẹ nên sớm bị đẩy vào vòng bão táp cuộc đời, phải sống tự lập.

– Ông là người trầm lặng, ít nói, có trái tim nhân ái, giàu tình yêu thương, “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

b. Gia đình

– Sinh ra trong đại gia đình quý tộc có thế lực bậc nhất lúc bấy giờ.

– Cha là Nguyễn Nghiễm – nhà văn, nhà nghiên cứu sử học, nhà thơ và từng làm tể tướng.

– Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dòng dõi bình dân – người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít hơn chồng 32 tuổi, giỏi nghề ca xướng.

– Thuở niên thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ.

– Anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản là người rất mực hào hoa, giỏi thơ phú.

c. Thời đại

– Nguyễn Du sống vào cuối thời Lê thời đầu Nguyễn – thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn, giai cấp thống trị thối nát, đời sống nhân dân tăm tối, nông dân nổi dậy khởi nghĩa, ảnh hưởng tới quan điểm sáng tác của ông. Ông hướng ngòi bút vào những con người tài hoa bạc mệnh, qua đó phê phán xã hội phong kiến đương thời.

d. Cuộc đời

– Nguyễn Du từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại, sau đó định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả.

– Sống lưu lạc ở xứ Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng.

– Năm 1802 làm quan cho triều Nguyễn, được cử đi sứ sang Trung Quốc hai lần.

e. Sự nghiệp thơ văn.

Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc:

+ Thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm.

+ Thơ chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái trường lưu.

Câu 2 :

a) Biện pháp tu từ : Ẩn dụ, so sánh.

b) Tác dụng : Làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Vân.

Câu 3 :

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng đen hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quí phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu "mây thua", "tuyết nhường". Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách thông dung, điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

Bình luận (0)
Hường Phạm
Xem chi tiết
Khanh Tay Mon
22 tháng 5 2019 lúc 15:42

Thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Điểm xuyết, chấm phá trên nền xanh bất tận ấy là sắc tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác khoe sắc, khoe hương. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa”, Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Không gian như khoáng đạt,trong trẻo và nhẹ nhàng hơn, cảnh đẹp mà có hồn, chứ không tĩnh tại, chết đứng. Bằng nghệ thuật đảo ngữ “trắng điểm”, thi nhân đã tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng của hoa lê nổi bật trên nền xanh non của cỏ. Màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống ; khoáng đạt, trong trẻo ; nhẹ nhàng, thanh khiết . Nguyễn Du quả là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ. Chỉ với hai câu thơ, bằng một vài nét chấm phá, mà thi nhân đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, diễm lệ và hấp dẫn lòng người. Ẩn sau những vần thơ là cả một tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên, là niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống đến tha thiết!

Bình luận (0)
Anh Thư
Xem chi tiết
Windy
13 tháng 10 2017 lúc 16:45

Chẳng biết là bao giờ, mùa xuân đã có sức thu hút kì diệu với lòng người đến vậy. Xuân tuyệt diệu, xuân trẻ trung, tinh khiết đã làm say lòng các thi nhân, văn sĩ. Đã có biết bao áng thơ, áng văn, biết bao bản nhạc ca ngợi mùa xuân nhưng bức tranh xuân chắc hẳn sẽ kém đi sự huyền diệu nếu không có Cảnh ngày xuân trong thơ đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền cho muôn đời:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Mở đầu bức tranh xuân, tác giả thông báo trực tiếp về thời gian:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi ra các cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những cánh cò chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, bởi chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, "con én đưa thoi” còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách hai thì câu thơ "Ngày xuân con én đưa thoi không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi vội vàng của thời gian. Cách hiểu này dường như rất lô gích với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nhà thơ Nguyễn Du đã đưa ra những con số rất cụ thể. Mùa xuân có chín mươi ngày thì đã trôi đi quá nửa (đã ngoài sáu mươi). Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân vốn đến và đi theo quy luật của tự nhiên bao giờ vẫn thế nhưng ở đây nhà thơ đã nhìn dưới cái nhìn tâm lí mang màu sắc chủ quan nên mùa xuân cũng trở nên sống động. Ta bắt gặp sự gần gũi trong cách cảm nhận thời gian của đại thi hào Nguyễn Du với ‘‘hoàng tử thơ ca" Xuân Diệu sau này. Nhà thơ Xuân Diệu của thời thơ mới trước mùa xuân tươi đẹp cùng đã có những dự cảm về sự tàn phai, nuối tiếc:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

(Xuân Diệu - Vội vàng)

Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thế kỉ thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy.

Nếu như hai câu đầu, Nguyễn Du nghiêng về miêu tả thời gian thì hai câu sau nhà thơ tập trung miêu tả cảnh sắc:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn nhựa sống. Tất cả cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái viên mãn nhất. Cỏ non xanh tận chân trời, màu xanh của cỏ tiếp nối với màu xanh của trời như trải ra ngút ngàn. Màu xanh vốn là màu của sự sống, hơn nữa đây là xanh non, xanh lộc biếc nên sự sống lại càng tràn trề, trào dâng. Nguyễn Du không phải là nhà thơ đầu tiên miêu tả cỏ xuân, trước ông. nhà thơ Nguvễn Trãi đã viết trong bài Bến đò xuân đầu trại:

Độ đầu xuân thảo lục như yên,

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

(Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời)

Nếu Nguyền Trãi sử dụng thủ pháp so sánh “thảo lục như yên" để miêu tả về xuân như mờ ảo, sương khói trong ngày mưa nơi bến đò thì Nguyễn Du lại vẽ trực tiếp bức tranh cỏ xuân. Chỉ với câu thơ: “Có non xanh tận chân trời", ông đã đem đến cho người đọc cảm nhận về hình ảnh, màu sắc, đường nét, sức sống của cỏ... Tất cả đều hài hòa, lắng đọng trong chiều sâu câu thơ 6 chữ tạo nên nét xuân riêng rất Nguyễn Du. Cái tài của đại thi hào không dừng ở đó, bức tranh cỏ xuân xanh biếc như làm nền cho sự đột phá ở câu thơ tiếp theo:

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân.

Chính điều này đã khiến câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du tạo được dấu ấn riêng sắc nét so với câu thơ cổ của Trung Quốc:

Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa

Câu thơ “Lê chi sổ điểm hoa” (Trên cành lê có mấy bông hoa) chỉ đơn giản là lời thông báo, không có sự hòa quyện màu sắc giữa sắc màu hoa lê với sắc màu “cỏ thơm” ở câu đầu. Trái lại, câu thơ của Nguyễn Du là sự hòa quyện, kết hợp màu sắc tạo nên nét thần thái của cảnh vật. Tác giả đã rất tinh tế khi lựa chọn màu sắc cho bức tranh xuân của mình. Đó là xanh và trắng - những sắc màu trinh nguyên, thanh khiết, giàu sức sống, tiêu biểu cho mùa xuân. Ta nhận ra rằng Nguyễn Du không chỉ là đại thi hào trong lĩnh vực thơ ca mà cũng là bậc thầy trong lĩnh vực hội họa. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.

Đã bao mùa xuân trôi đi, đã có bao áng thơ văn về mùa xuân ra đời nhưng bốn câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du thì vẫn trường tồn cùng thời gian, không gì có thể thay thế. Đó thực sự là bức tranh xuân vĩnh cửu cùng đất trời và lòng người.



Bình luận (1)
Đạt Trần
13 tháng 10 2017 lúc 18:46

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và ảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân . Đoạn thơ có 18 câu , từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu hình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi"rất gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ - tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đua, như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu "đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ?

Sau cánh én "đưa thoi” là ánh xuân, là '!thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão"(Ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là Xuân hồng”(Xuân Diệu), "mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử v.v... Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang"gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh). Còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm tận chân trời. Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chi mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa":



Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: ''Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân"ngây ngất, say đắm lòng người:
Nhìn hoa đang hé tưng bừng,

Khao khát mùa xuân yên vui lại đến.

(Ca khúc Khát vọng mùa xuân - Mô-da)

Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:

Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,

Tháng giêng hai vút trời bay cánh én... ?

(Ý nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh "trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: lễ là… hội là.. "gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: "Tháng giêng là tháng ăn chơi - Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè"... (Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo đường "gần xa "những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh"trẩy hội trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu"vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn "nhưnước", áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường như nêm. Các từ ngữ: "nô nức", "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:
Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa"ấy, có 3 chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân "mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm, chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"... Có biết bao "bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử... mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.

Thơ là nghệ thuật cùa ngôn từ. Các từ ghép: "yến /anh", "chi/em", "tài/tử", "giai/nhân" "ngựa/xe", "áo / quần "(danh từ); "gần/xa", "nô/nức", "sắm / sửa", "dập/dìu"(tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Phương Đông ; của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu " của chị em Kiều : Ngổn ngang/gò đống kéo lên,



Thoi vàng vó rắc/tro tiền giấy bay.

Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ đưộc Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống - kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang” trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình

Các tài tử, giai nhân và 3 chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiểu đổi thay trước cảnh "Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay ", nhưng giá trị nhân bản của văn thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động!

Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh.

Tà tà, bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tăm tình thì "thơthẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì bước dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem"... đối với mọi cảnh vật. Tất cả đểu nhỏ bé. Khe suối chỉ là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh. Dòng nước thì "nao nao” uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang cuối ghềnh. Chỉ một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ "lần xem "gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ"gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi". Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: "Mùa xuân của tôi... Cái mùa xuân thần thánh của tôi... Đẹp quá đi. mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến... Và chúng ta muốn nói thêm: Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng, sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?...

Bình luận (0)
Đạt Trần
13 tháng 10 2017 lúc 18:47

1. Khung cảnh mùa xuân:

– Hai câu thơ đầu vừa gợi tả thời gian, vừa gợi tả không gian mùa xuân:

+ Câu thơ thứ nhất “Ngày xuân con én đưa thoi” vừa tả không gian: ngày xuân, chim én bay đi bay lại,chao liệng như thoi đưa; vừa gợi thời gian: ngày xuân trôi nhanh quá, tựa như những cánh én vụt bay trên bầu trời.

+ Câu thơ thứ hai “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” vừa gợi thời gian: chín chục ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi ngày (tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba); vừa gợi không gian: ngày xuân với ánh sáng đẹp, trong lành (thiều quang)

– Hai câu thơ sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân với hai sắc màu xanh và trắng:

+ Chữ “tận” mở ra một không gian bát ngát, thảm cỏ non trải rộng đến tận chân trời làm nền cho bức tranh xuân.

+ Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng . Không gian như thoáng đạt hơn, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn. Chỉ bằng một từ “điểm”, nhà thơ đã tạo nên 1 bức tranh sinh động hơn, cảnh vật có hồn hơn, chứ không tĩnh tại, chết đứng.Cách thay đổi trật tự từ trong câu thơ làm cho màu trắng hoa lê càng thêm sống động và nổi bật trên cái nền màu xanh bất tận của đất trời cuối xuân.

=> Mùa xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non); khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa).

=> Bằng một vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã phác họa nên 1 bức tranh xuân sinh động, tươi tắn và hấp dẫn lòng người.

2. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:

– Trong tiết Thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi tảo mộ ( lễ) và đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội).

– Tác giả sử dụng một loạt các từ hai âm tiết ( cả từ ghép và từ láy) để gợi lên không khí lễ hội thật tưng bừng, rộn rã:

+ Các danh từ: “yến anh”,”chị em”,”tài tử”,”giai nhân”,”ngựa xe”,”áo quần”… -> Gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội.

+ Các động từ: “sắm sửa”,”dập dìu”,… -> Gợi tả sự rộng ràng, náo nhiệt của ngày hội.

+ Các tính từ: “gần xa”,”nô nức”… -> Tâm trạng của người đi hội.

– Cách nói ẩn dụ: “Gần xa nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít.

– Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gợi lên một tập tục, một nét đẹp truyền thống của văn hóa lễ hội xa xưa. Cáctrang tài tử giai nhân vui xuân mở hộinhưng không quên những người đã mất:

Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

c. Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

– Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều ra về khi trời đã xế chiều và hội đãn tan.

– Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt,khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang.Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp , rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.

– Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,”nao nao”… không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện. “Nao nao dòng nước uốn quanh” báo trước ngay sau lúc này, Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng.

Bình luận (0)
Trần Thị Trà Giang
Xem chi tiết
Trần Đăng Nhất
17 tháng 10 2017 lúc 11:45

4 câu đầu đoạn trích "Cảnh ngày xuân"(Truyên Kiều - Nguyễn Du) la bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp. Vẻ đẹp ấy gợi lên không gian và thời gian của ngày xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi."​

Hình ảnh ẩn dụ"con én đưa thoi" không hẳn là những cánh én đang chao liệng giữa bầu trời mùa xuân tươi sáng mà còn chỉ bước đi của thời gian: nhanh như thoi đưa. Nghĩa là thời gian mùa xuân đang trôi nhanh về điểm cuối mùa. Mặt khác, trong 2 câu thơ người đọc còn nhận ra niềm nuối tiếc thầm kín của con người. Vẻ đẹp mùa xuân còn được đặc tả cụ thể qua màu sắc của cỏ cây:

"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"​

Thảm cỏ xanh làm nền cho bức tranh xuân, trên cái nền xanh tươi ấy có điểm một vài bông hoa lê trắng tạo sự hài hoà tuyệt diệu. Có cảm giác những bông hoa lê nở muộn như đem vào bức tranh xuân màu sắc tinh khôi mới mẻ và đầy sức sống. Không chỉ vậy, từ "điểm" như gợi trước mắt người đọc đường nét sống động của những bông hoa. Như vậy, Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy một bức tranh xuân có vẻ đẹp thật thanh tú và tươi mát.

Bình luận (0)
Kiều Linh
26 tháng 10 2017 lúc 18:58

Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:

“ Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá. Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh cùa cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.



Bình luận (0)
Thảo Phương
7 tháng 10 2019 lúc 17:45

Gợi ý

Khung cảnh mùa xuân

- Không gian khoáng đạt: cảnh ngày xuân trong trẻo, tinh khôi và tràn đầy sức sống.

+ Chim én đưa thoi

+ Thiều quang chín chục, đã ngoài sáu mươi

+ Màu cỏ non xanh rợn đến chân trời: gợi lên không gian khoáng đạt.

+ Cành lê trắng: gợi sự thanh khiết, trong trẻo.

⇒ Bút pháp miêu tả, gợi, từ ngữ gợi hình: cảnh ngày xuân hiện ra tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống.



Bình luận (0)
Nguyễn Duyên
Xem chi tiết
Khanh Tay Mon
22 tháng 5 2019 lúc 15:38

mk goi y nek:

+ Giống: hình ảnh cỏ và bầu trời đều đc hiện lên => cảnh vật rõ ràng

+ Khác: trong câu thơ trước"cỏ non ..." hình ảnh được hiện lên 1 cách khá vui vẻ trong buổi trời xuân

trong câu sau thể hiện sự buồn bực, bất lực chỉ biết ngắm nhìn k thể hdd đc

Bình luận (0)
Khanh Tay Mon
22 tháng 5 2019 lúc 15:38

" Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa''
Trước mắt người đọc là không gian bất tận của màu xanh.Bầu trời mặt đất nối liền thành một dải tươi xanh mơn mởn ,tràn căng sức sống .Trên nền trời màu xanh ấy là sự điểm xuyết,chấm phá của một vài bông hoa lê trắng.Cảnh có rộng có hẹp,mùa xuân có màu sắc,âm thanh ,hình ảnh ,mùa xuân được vẽ bằng nét vẽ hội họa độc đáo ,tạo ra bức tranh mùa xuân căng tràn sức xuân.Nó gắn với niềm vui,niềm hạnh phúc của con người
''Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
so với câu thơ cổ của trung quốc để làm sáng tỏ sự tinh tế của nguyễn du:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
Hai câu thơ cổ của trung quốc thiên về tả cảnh ,cảnh tĩnh ,giống như trong một bức tranh chủ yếu bằng nét đạm bạc.Còn hai câu thơ của Nguyễn Du cũng là bức tranh cảnh ngày xuân nhưng nhiều màu sắc hơn:"xanh" của cỏ ,"trắng"của hoa lê tạo nên một sự hài hòa êm dịu.Cảnh không tĩnh mà động bởi việc tạo nên các kết hợp từ "xanh đậm","trắng điểm"làm cho những tính từ chỉ màu sắc ít nhiều mang tính chất của động từ:màu xanh trải dài tới tận chân trời(khác với màu xanh của cỏ trong cau thơ của trung quốc:đặt canh,sát ngay với màu xanh ngọc của trời"liên thiên bích),màu trắng của hoa bắt đầu xuất hiện từng bông một trên cành.Những thay đổi tưởng như không đáng kể ấy đã khiến cho mùa xuân trong thơ Nguyễn Du trở nên tràn đầy sức sống.Tươi mới ,trẻ trung "non xanh":mới bắt đầu ,còn e ấp điểm một vài nhưng đã ẩn chứa sự dâng tràn ,mãnh liệt "tận chân trời".
Câu thơ cổ Trung Quốc vẽ lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân:có hương vị(cỏ thơm),màu sắc xanh mướt(bích) của cỏ nối xanh ngọc của chân trời tạo nên khối xanh.Có đường nét của cành lê trắng điểm vài bông hoa.Cảnh đẹp mà tĩnh tại.Còn 2 câu của NDlấy 2 gam màu chủ đạo là màu xanh non của thảm coe xanh bất tận ''tận chân trời'' làm nền nổi rõ sắc trắng của hoa lê.Dùng từ ''non'' vừa bổ nghĩa cho từ ''cỏ''.vừa bổ nghĩa cho từ xanh,mùa xuân vì thế mà càng mềm mại,non tơ,đầy sức sống.''tận chân trời'' là 1 nét tạo hình,đường nét mở rộng khiến ta hình dung ra mùa xuân ở đây như được kết thành hình khối,không gian mùa xuân đẹp,tươi,rộng.Trên nền ấy,điểm xuyết vài bông hoa trắng làm cho màu sắc hài hòa.Mùa xuân của cỏ,của trời làm màu trắng hoa lê thêm thanh tao,đẹp đẽ.Màu trắng của hoa làm mùa xuân thêm tươi sáng,nền nã.Mùa xuân hiện lên sinh động,sắc nét,gợi cảm.Kia nữa.từ ''điểm''dùng thật thần tình.Câu thơ Nguyện Du chỉ thêm môt chữ trắng cho sắc màu hoa lê mà bức tranh đã khác.Chữ''trắng''làm điểm nhấn ,nổi bật thần sác cành hoa lê.Sắc xanh của cỏ, sắc trắng hoa lê tạo bức tranh mới mẻ,đầy sức sống và thật nhẹ nhàng...Tất cả gợi lên vẻ đẹp tinh khôi,trong trẻo sức sống của mùa xuân.

Bình luận (0)
trần thảo lê
Xem chi tiết
Dương Hạ Chi
19 tháng 10 2017 lúc 19:17

Từ hai câu thơ cổ năm chữ của Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa ”, Nguyễn Du đã sáng tạo nên câu lục bát:

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vùi bông hoa

Trong văn học trung đại, các tác giả thường sử dụng những điển tích điển cố hoặc hình ảnh ước lệ tương trưng để miêu tả thiên nhiên. Tuy nhiên trong câu thơ của Nguyễn Du không chỉ là sự mô phỏng, đó còn là sáng tạo nghệ thuật

Câu thơ cổ Trung Quốc chú ý đến hương thơm (cỏ thơm), không chú ý đến màu hoa. Chữ “điểm” chỉ lượng của hoa. Còn Nguyễn Du chú ý đến màu sắc (cỏ non xanh). Nguyễn Du làm bật cái màu trắng của hoa trên nền xanh của cỏ để tạo sự hài hoà. Chữ “điểm” được dùng như là động từ chỉ sự điểm tô, trang trí. Thơ cổ Trung Quốc chú ý đến sự giao nhau, tiếp giáp giữa cỏ với trời. Còn Nguyễn Du chú ý đốn cái mênh mông của cỏ kéo dài đến tận chân trời.
Bình luận (0)
Trang Trangg
Xem chi tiết
huyền
15 tháng 10 2017 lúc 22:10

Bạn tham khảo :Cấu trúc đặc biệt ở chỗ:

-điểm trắng><trắng điểm

-Tác dụng:góp phần làm cho bức tranh ngày xuân trở nên có hồn , mang một nét đẹp riêng biệt của sự nhẹ nhàng tinh khiết trong không gian mùa xuân

Bình luận (2)