Bài 23. Kinh tế, văn hóa thế kỉ XVI - XVIII

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Phạm Thái Dương
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 11:59

Đàng Trong có những nét tương đồng trong phát triển thủ công nghiệp so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới như đóng tàu, thuyền, đúc súng, khai thác mỏ. Trong ngành khai thác mỏ, Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài, chỉ có một số mỏ sắt và mỏ vàng. Nhiều đô thị ven biển, ven sông phát đạt, có quan hệ mậu dịch với các nước Đông Á, Đông Nam Á và một số nước phương Tây. Hội An, Thanh Hà (gần Huế), Gia Định và những đô thị và hải cảng nổi tiếng.

Nguyễn Minh Nguyệt
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 11:58

A. Đói khổ, bần cùng

Đỗ Phương Nam
Xem chi tiết
Quốc Đạt
20 tháng 5 2016 lúc 12:00

- Nông nghiệp phát triển thuận lợi : 
+khuyến khích khai hoang 
+ Các tổ chức di dân lập thành làng ấp 
-1698 nguyễn Hữu cảnh đi kinh lí phía Nam đặt phủ Gia định,lập làng xóm mới

Vậy đáp án : D . Nhờ khai hoang và điều kiện tự nhiên thuận lợi

Quốc Đạt
20 tháng 5 2016 lúc 11:59
- Nông nghiệp phát triển thuận lợi : 
+khuyến khích khai hoang 
+ Các tổ chức di dân lập thành làng ấp 
-1698 nguyễn Hữu cảnh đi kinh lí phía Nam đặt phủ Gia định,lập làng xóm mới.
 
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 11:59

D. Nhờ khai hoang và điều kiện tự nhiên thuận lợi

Đào Thành Lộc
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 11:59

B. Sai 

Nguyễn Minh Bảo Anh
20 tháng 5 2016 lúc 16:45

B

giang nguyễn
22 tháng 5 2016 lúc 7:06

B , SAI

Nguyễn Việt Khang
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 12:05

* Nông Nghiệp:
- Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều đã phá hoại nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp. Chính quyền Lê - Trịnh ít quan tâm đến công tác thuỷ lợi và tổ chức khai hoang. Ruộng đất công làng xã bị cường hào đem cầm bán. Ruộng đất bỏ hoang, mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập, nhất là vùng Sơn Nam, Thanh Hoá, Nghệ An. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán.
* Thủ công nghiệp :

- Từ thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công, trong đó có nhiều làng thủ công nổi tiếng : gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An)...
* Thương nghiệp :

- Buôn bán phát triển, nhất là ờ các vùng đồng bằng và ven biển. Các thương nhân châu Á, châu Âu thường đến Phố Hiến và Hội An buôn bán tấp nập. Xuất hiện thêm một số đô thị, ngoài Thăng Long còn có Phố Hiến (Hưng Yên), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
- Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn cho thương nhân nước ngoài vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương, do vậy, từ nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.
 

Đỗ Hạnh Quyên
20 tháng 5 2016 lúc 13:45

* Nông nghiệp :

- Ruộng đất bị bỏ hoang, mất mùa đói kém diễn ra dồn dập

- Chính quyền ít quan tâm đến thủy lợi

- Nông nghiệp bị phá hoại nghiêm trọng

* Thủ công nghiệp :

- Xuất hiện thêm nhiều làng nghề thủ công như làng gốm Phố Hà, làng dệt La Khê

* Thương nghiệp :

- Việc buôn bán phát triển, ngoài Thăng Long với 36 phố phường, một số đô thị hình thành như phố Hiến (Hưng Yên)

Nguyễn Hương Giang
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 12:05

Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ : 
* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621. 
* Thời kỳ xây dựng năm 1651. 
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867. 

Ý nghĩa: Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ. 

Cao Hoàng Minh Nguyệt
20 tháng 5 2016 lúc 13:05

Hoàn cảnh:

- Thế kỉ XVII, các giáo sĩ phương Tây đã dùng chữ cái La-tinh ghi âm ra tiếng Việt để truyền đạo=> chữ Quốc ngữ ra đời.

- Giáo sư A-lếch-xăng đơ Rốt là người có nhiều đóng góp lớn trong việc chữ Quốc ngữ ra đời.

Ý nghĩa:

- Là chữ viết dễ đọc, dễ nhớ, tiện lợi và khoa học.

Chúc bạn học tốt!

Đinh Thảo Duyên
20 tháng 5 2016 lúc 13:23

Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài hơn ba trăm năm, tính từ ngày những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời với bộ chữ in có dấu thanh được thửa ở châu Âu riêng cho nó. Theo các nhà sử học (1), đội thương thuyền đầu tiên của Bồ Đào Nha cập vịnh Đà Nẵng năm 1516, chỉ năm năm sau khi họ đổ quân lên chiếm Malacca (eo biển Mã Lai). Còn ở Đàng Ngoài thì hình như muộn hơn nhiều, và đến từ Macau (Trung Quốc) mà trước đó họ cũng đã chiếm làm thuộc địa. Dĩ nhiên, như chúng ta biết, đến năm 1651 mới có Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh xuất bản tại Roma, song để có cuốn từ điển này (ai là tác giả đích thực vẫn còn là điểm tồn nghi), hẳn phải có nhiều giáo sĩ khi đặt chân lên đất Việt từng thử dùng mẫu tự Latinh để ghi cách phát âm mà học tiếng bản địa. Tuy vậy, ngay sau khi đã được định hình một cách tương đối có hệ thống, chữ quốc ngữ vẫn chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhà thờ Thiên Chúa giáo. Phải đợi đến ngày Gia Định báo, tờ báo đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ ra mắt bạn đọc (năm 1865) thì nó mới đi vào công chúng tương đối rộng; và thời gian sau đó, các trường dạy chữ quốc ngữ lần lượt mở cửa, chữ quốc ngữ thật sự vào cuộc sống của xã hội Việt Nam. 

Chữ Quốc ngữ: Công trình sáng tạo tập thể 

Ai là những người đi tiên phong và có công đầu trong việc định hình chữ quốc ngữ? Vấn đề này đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người cho rằng công lớn thuộc về hai giáo sĩ người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amiral và Antonio Barbosa. Lại có ý kiến cho rằng các tác giả đầu tiên là ba giáo sĩ người Ý Francesco Buzumi và hai đồng sự trẻ hơn của ông là Francesco de Pina và Cristoforo Borri (2). Giáo sĩ Francesco Buzumi cùng một giáo sĩ người Bồ tên là Diego Carvalho đến miền Nam nước Việt năm 1615. Thời gian này các nhà truyền giáo phương Tây bị các tướng quân (shogun) đang nắm chính quyền tại Nhật Bản xua đuổi nghiêm ngặt. Giáo đoàn dòng Tên Jesus (Jésuites) hướng về Đàng Trong của Việt Nam, nơi đây các thương nhân Nhật đã hình thành một cơ sở giao thương thịnh vượng ở Hội An. Chín năm sau, 1624, Alexandre de Rhodes mới được phái đến cùng năm giáo sĩ khác cập bến Hội An. 

Tuyệt đại bộ phận các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Việt Nam từ trước tới nay không ai quy công đầu cho một tác giả đơn nhất mà đều khẳng định chữ quốc ngữ là sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những vị đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể tạm ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển. Công lao đặt nền móng chắc chắn thuộc về các giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Ý, người Pháp, người Hà Lan... và có cả người Việt Nam - tại sao không? Bởi, theo thiển nghĩ của chúng tôi, người Việt chứ còn ai khác đã dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ nước ngoài, và một khi đã có một số tín đồ bản địa, cho dù hiếm hoi, tiếp cận tiếng La tinh, thì nhất định họ có góp phần vào việc ghi âm chữ quốc ngữ bằng thứ mẫu tự ấy. Người phương Tây ra nước ngoài, nhất là vào thời bành trướng của chủ nghĩa thực dân, ít người tránh được thiên hướng kỳ thị người bản địa. Nếu chúng ta tin lời của chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì các nhà truyền giáo người Bồ, người Ý, người Tây Ban Nha không muốn nâng một số giáo đồ Việt Nam lên hàng chức sắc. Có nhà sử học đã đặt vào miệng ông câu nói: “Người bản xứ có thể tử vì đạo, tại sao họ không thể làm giáo sĩ?”. Dù sao, tín đồ Việt Nam đầu tiên là Philippo Bỉnh mãi tới năm 1820 mới được tấn phong linh mục tại Lisbonne, thủ đô Bồ. 

Sao chỉ là Alexandre de Rhodes? 

Tại sao trong số tập thể tác giả kia, một tên tuổi được nhắc đến, được vinh danh nhiều nhất lại là giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người Pháp? Theo các nhà nghiên cứu có uy tín như Léopold Cadière, Paul Mus hoặc muộn hơn, Jean Lacouture, trước hết không chỉ bởi ông có công cho xuất bản cuốn Từ điển Việt - Bồ - Latinh và viết cuốn Ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên, mà chủ yếu vì “Alexandre de Rhodes nếu không phải là người sáng tạo thì là người đầu tiên sử dụng và quảng bá mạnh mẽ chữ quốc ngữ” (Jean Lacouture). Còn Paul Mus thì đánh giá Alexandre de Rhodes, vốn là người có tư chất nhà ngôn ngữ học thạo mười hai thứ tiếng, đã “tiếp cận chữ quốc ngữ trên bình diện khoa học. Ông đã có công hoàn chỉnh cách viết chữ quốc ngữ”(3). Ở đây có một điểm dù sao cũng đòi hỏi chúng ta phải ít nhiều thận trọng. Ba vị nói trên, những nhà nghiên cứu uyên thâm, đều là người Pháp. Mà, nói mạn phép, người Pháp cho dù làm khoa học, dường như vẫn mang “máu đại Pháp” trong người, bao giờ cũng tìm cách tôn vinh đồng bào của mình trước hết; đặc biệt từ thế kỷ gọi là “ánh sáng”, thế kỷ của các nhà tư tưởng, văn hóa, khoa học lỗi lạc, thế kỷ mà ánh sáng của Cách mạng Pháp 1789 thật sự tỏa sáng địa cầu, trở về sau. Đấy là chưa nói những trường hợp mang ý nghĩa chính trị rõ rệt. Vào những năm 40 thế kỷ 20, khi chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thật sự lung lay trước phong trào cách mạng đang lên và sự bành trướng của Nhật Bản giương cao ngọn cờ Đại Đông Á đầy tính mị dân của họ, nhiều vị cao niên thuộc thế hệ nay gọi là 2X, 3X ít nhiều đều có đọc các tác phẩm được xuất bản với ngân sách hào phóng do nhà cầm quyền thực dân bỏ ra để xây dựng “Tủ sách Alexandre de Rhodes”. Trong bối cảnh ấy, rất dễ hiểu tại sao hai giáo sĩ được tôn vinh nhất ở Đông Dương là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ) và giám mục D’Adran, tên thật là Pigneau de Béhaine (Bỉ Như Bá Đa Lộc), người có công phò tá Hoàng tử Cảnh sang Paris cầu viện, giúp Nguyễn Ánh đánh nhà Nguyễn Tây Sơn, “nhất thống sơn hà” để hơn một trăm năm mươi năm sau toàn bộ sơn hà sẽ chịu sự đô hộ của người Pháp. 

Alexandre de Rhodes thực chất là người như thế nào? 

Vấn đề này cũng đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người bảo người Việt Nam nên dựng tượng đồng bia đá cho ông. Có người quy kết - phần nào chắc chẳng oan - Alexandre de Rhodes là kẻ có tội với dân tộc Việt Nam, vì giáo sĩ này là người đầu tiên vận động quyết liệt với triều đình vua Louis 14 để dọn đường cho thực dân Pháp sang xâm chiếm Đông Dương xa xôi. Hơn thế, về tư cách, Alexandre de Rhodes là kẻ “đạo văn”, bởi đã mang bản thảo cuốn Từ điển Việt - Bồ - Latinh do hai nhà truyền giáo Bồ khi rời Macau để lại nhà thờ San Pauli về Vatican cho xuất bản và đứng tên mình. Đã thế, ông còn ngang nhiên đứng tên tác giả một cuốn hồi ký của người khác, v.v... Do tư cách không đàng hoàng, khi các giáo sĩ Pháp được nhà vua với sự chấp thuận của Giáo hội La Mã phái sang Viễn Đông, không có tên Alexandre de Rhodes trong đoàn ấy. Ngược lại, ông gần như bị lưu đày sang Ba Tư để rồi qua đời tại đó. 

Những sự đánh giá ấy chắc hẳn ít nhiều có căn cứ lịch sử. Coi các bản Trần thuật của Alexandre de Rhodes về những chuyến đi Viễn Đông của ông, người đọc ngày nay ai cũng nhận thấy tác giả khoa trương thái quá về công đức của mình, đến nỗi chính các nhà sử học đồng bào của ông cũng khó nén được nụ cười nửa miệng. 

Alexandre de Rhodes sinh năm 1591 ở thành phố Avignon, miền Nam nước Pháp, từ một gia đình gốc Do Thái chuyên buôn tơ lụa sang Viễn Đông. Mẹ người lai Ý. Từ nhỏ ông đã mơ đến miền đất hứa phương Đông giàu tài nguyên quý hiếm như Ấn Độ, Trung Hoa... Trở thành giáo sĩ, ông đến Macau trên một chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha. Thời ấy, đội thương thuyền của Bồ mạnh nhất thế giới. Người Bồ vẫn huênh hoang: “Không có tàu buôn Bồ, không có hàng tạp hóa Bồ, làm gì có các giáo sĩ dòng Tên!”(4). Ông đến Đàng Trong lần đầu năm 33 tuổi và sống tại đây trước sau bảy năm, trước khi vĩnh viễn rời Viễn Đông. Ông có tư chất và kiến thức một nhà ngôn ngữ học. Khi đã là một giáo sĩ, ngoài tiếng Ý họ ngoại, trước lúc lên tàu sang Viễn Đông, ông còn dành thời gian học tiếng Bồ. Cuối đời, bị “nửa lưu đày” sang Ba Tư, ông còn học để sử dụng thành thục ngôn ngữ thứ 13 là tiếng Ba Tư. Điều đó cho phép chúng ta lý giải một phần tại sao Alexandre de Rhodes thường hay được viện dẫn - ngoài những nguyên nhân vừa nói ở trên - khi các học giả bàn về ai là những người sáng tạo chữ quốc ngữ. 

Sự cạnh tranh của chủ nghĩa thực dân Bồ - Pháp 

Về nguyên nhân tại sao Alexandre de Rhodes không được trở lại Viễn Đông cùng với đoàn giáo sĩ Pháp mà ông có công vận động thành lập, một số nhà sử học giải thích tại sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa thực dân Bồ và chủ nghĩa thực dân Pháp. 

Thời kỳ đầu, với việc nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Magellan phát hiện quần đảo Philippines ở Viễn Đông (1521), nhà hàng hải người Bồ Christophe Colomb (Colombus) phát hiện châu Mỹ (1492), có thể coi như người Bồ Đào Nha tạm làm bá chủ các đại dương. Tuy nhiên, thời gian này không kéo dài. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia châu Âu ngày càng quyết liệt. Quần đảo Indonesia thoạt tiên do người Bồ khám phá, rơi vào tay người Hà Lan. Chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha và Pháp cũng trỗi dậy, cùng ganh đua với nhau và giành giật với Bồ, hạ uy thế của Bồ. Trong bối cảnh ấy, “Alexandre de Rhodes không quên mình là người Pháp” (lời nhà sử học Jean Lacouture). Ông vận động ráo riết để người Pháp có mặt sớm ở Viễn Đông. Dù chịu ơn người Bồ, ông dám vượt mặt các bậc bề trên trong giáo đoàn và tìm cách liên hệ trực tiếp với Tòa thánh Vatican, v.v... Vì những lý do đó, “ông bị triều đình Bồ Đào Nha coi như một kẻ thù của nước này” (Jean Lacouture). 

Thôi thì hãy để các nhà sử học, nhà ngôn ngữ học... tiếp tục tranh luận và lý giải. Đối với người Việt Nam chúng ta, bất kỳ ai có đóng góp cho sự phát triển của dân tộc Việt, chúng ta đều hàm ơn và hậu thế tôn vinh những người nước ngoài có cống hiến trên mặt ấy tùy công lao đóng góp của họ, cho dù họ là người thế nào. Việc một số nơi ở Bắc Bộ có đền thờ thái thú Sĩ Nhiếp (thế kỷ 2 trước Công nguyên), người truyền bá Nho giáo vào đất Giao Châu (5), là thí dụ sớm nhất. Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà thành phố mang tên Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn nguyên hai con đường song song, một mang tên nhà nho Hàn Thuyên và một mang tên giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Cũng không phải không hàm chứa ý nghĩa cao cả mang tính tượng trưng, khi chính giữa hai con đường song hành ấy có đại lộ mang tên Lê Duẩn dài hơn, rộng hơn; ba con đường song hành vượt qua đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa để đàng hoàng đi vào cổng chính hoành tráng của Hội trường Thống Nhất - Dinh Độc lập trước năm 1975. 

Léopold Cadière 

Giáo sĩ người Pháp, từng sống ở Việt Nam 63 năm, một trong những nhà Việt Nam học tên tuổi đầu tiên của thế giới. Chủ trương tờ tập san ra hằng tháng có tên Kỷ yếu những người bạn của cố đô Huế (BAVH - trước đây quen gọi là Đô thành hiếu cổ) xuất bản từ năm 1914 đến 1944, gồm 121 tập khổ lớn. Léopold Cadière đã công bố khoảng 250 công trình biên khảo về lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam. Những công trình của ông về chữ quốc ngữ rất công phu. Riêng một việc tìm hiểu đâu là bức chân dung đích thực của Alexandre de Rhodes, ông đã trở về du khảo tại Pháp và Bỉ trong hơn một năm (1928-1929) và tìm ra 9 bức chân dung khác nhau để so sánh. 

Paul Mus 

Nhà Á châu học rất nổi tiếng, thành viên Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp từ 1927 đến 1944. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, giảng dạy tại Đại học Collège de France, Paris và Đại học Yale, Hoa Kỳ. Các công trình của ông thường được các nhà Việt Nam học nước ngoài viện dẫn, trong đó có các cuốn Việt Nam, nghiên cứu xã hội học về một cuộc chiến tranh, 1952; Số phận của Liên hiệp Pháp, 1954; Chiến tranh không có gương mặt, 1961; Hồ Chí Minh, Việt Nam, châu Á, 1972... Sau khi ông qua đời, các bài giảng của ông tại Đại học Yale được một môn đệ, tiến sĩ John McAlister, tập hợp và xuất bản: Người Việt Nam và cuộc cách mạng của họ, 1972. 

Jean Lacouture 

Nhà báo, nhà văn, nhà sử học Pháp, tác giả nước ngoài đầu tiên viết tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1967, tái bản 1976. Ông được coi như nhà viết tiểu sử danh nhân lớn nhất của Pháp ngày nay. Tác giả nhiều bộ tiểu sử về Léon Blum, De Gaulle, Pierre Mendès France, Francois Mitterrand, Francois Mauriac, Nasser... Bộ sách Những giáo sĩ Dòng Tên, mà ông gọi là “cuốn tiểu sử về nhiều người”, 1991-1992, hai tập, dày tổng cộng 1.100 trang khổ lớn. Năm 1946, từng làm tùy viên báo chí của tướng Leclerc ở Đông Dương, được nhiều lần gặp và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp..., Jean Lacouture được coi là một trong những người thành thạo nhất của Pháp về thời cuộc Việt Nam. 

Một số thông tin là mình lấy trên mạng nhưng quá trình hình thành thì khá dài dong nên bạn vào đây để hiểu rõ thêm nha

http://chimviet.free.fr/vanhoc/phuctrun/...

Lê Viết Lưu Thanh
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 12:06

Nghệ thuật cũng có những bước phát triển mới. Trong các thế kỉ X- XIV, những công trình nghệ thuật Phật giáo được xây dựng ở khắp mọi nơi như chùa Một Cột (Diên Hựu), chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh. Chuông, tượng cũng được đúc, tạc rất nhiều. Cuối thế kỉ XIV, thành nhà Hổ (Vĩnh Lộc - Thanh Hoá) được xây dựng và trở thành một điển hình của nghệ thuật xây thành ở nước ta. Ở phía nam,  nhiều đền tháp Chăm được xây dựng thêm mang phong cách nghệ thuật đặc sắc.

Xuất hiện nhiều tác phẩm điêu khắc mang những hoạ tiết hoa văn độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bỏng cúc nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen nở... cùng nhiều bức phù điêu có hình các cô tiên, các vũ nữ vừa múa vừa đánh đàn.

Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng, ra đời từ sớm và ngày càng phát triển. Múa rối nước là một nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý.

Văn bia Sùng Thiện diên linh (ở Hà Nam, khắc năm 1121) viết: “Hàng nghìn chiếc thuyền bơi giữa dòng nhanh như chớp... Làn nước rung rinh, rùa vàng nổi lên đội ba quả núi... lộ vân trên vỏ và xoè bốn chân, nhe răng trợn mắt... Các thần tiên xuất hiện, nét mặt nhuần nhị thanh tâm há phải đâu vẻ đẹp của người trần thế, tay nhỏ nhắn mềm mại múa điệu hồi phong...”

Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm, đàn tranh, chiêng cổng v.v... Các na;hệ nhấn sáng tác nhiều bản nhạc đế tấu hát trong các buổi lễ hội.

Ca múa được tổ chức trong các lễ hội, ngày mùa ờ khắp các làng bản miền xuôi cũng như miền ngược. Cùng với các điệu ca, điệu múa, còn có các cuộc đua tài như đấu vật, đua thuyền, đá cầu...


 

Đỗ Hạnh Quyên
20 tháng 5 2016 lúc 12:11

- Thiên nam ngữ lục, dài hơn 8000 câu

- Truyện Trạng Quỳnh, là truyện tiếu lâm

- Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp ( Bắc Binh)

-.........

Mai Nguyên Khang
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 12:09

A. Không phù hợp với cách cai trị dân của chúa Nguyễn, chúa Trịnh

giang nguyễn
22 tháng 5 2016 lúc 7:05

Theo mik  là A

lolang

Vũ Hiền Vi
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
20 tháng 5 2016 lúc 12:14

C. Thế kỉ XVII

giang nguyễn
22 tháng 5 2016 lúc 7:04

tke kỉ XVII

giang nguyễn
Xem chi tiết
thanh ngọc
22 tháng 5 2016 lúc 7:21

*qốm bát tràng

*qốm Chăm Bầu Trúc

*Thổ cẩm

*điêu khắc đá

*dệt chiếu

*mây che lá

*thêu

*sơn mài

*tranh đông hồ

*làm hương

*bánh trưng hà nội

*nghề kim hoàn(phố làng bạc)

*lam trống Lâm Yên

*làng chiếu Cẩm Nê

*Tranh làng Sình

*làng lụa Vạn phúc

*

Quốc Đạt
22 tháng 5 2016 lúc 7:53

làng Chàng Sơn                 + Làng nghề thủ công mỹ nghệ xã Đồng Minh

Làng Thổ Hà                       + Làng Ninh Vân

+ Làng Kiêu Kỵ                      + Làng chài Cái Bèo

Làng gốm Phù Lãng          + Làng Phước Tích

+ Làng hoa Ninh Phúc          + Làng Lũng

+ Làng Đồng Kỵ                    + Làng Đông Hồ

+ Làng cói Kim Sơn             + Làng Non Nước

+ Làng Châu Khê                  + Làng Đồng Xâm

+ Làng Vạn Phúc                   + Làng nghề Sơn Đồng

+ Làng Kiên Lao                    + Làng Diệc

+ Làng Văn Lâm                    + Làng La Xuyên

...........................

có tất cả 63 làng

Dịch Dương Thiên Tỉ
28 tháng 11 2018 lúc 7:34

Ở nước ta thời xa xưa đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề thủ công có tiếng. Ta có thể kể đến một số cái tên như:

Làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) Làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang) Làng rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An) Hàng Thêu ở Thừa Thiên Huế Lụa tơ tằm ở Hội An – Quảng Nam. Làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Tây)