Văn bản ngữ văn 10

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Bùi Ngọc Anh

Nêu hiểu biết về cái ngã (cái tôi) trong thơ Hồ Xuân Hương?

Pham Minh Khang
6 tháng 2 2019 lúc 10:15

Hơi dài tí nhưng bài này cô tui sữa lại rồi ,100% 7 phẩy trở lên.

Hồ Xuân Hương là một tác giả văn học gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học nước ta. Có ý kiến cho rằng không có tác giả Hồ Xuân Hương, không có hiện tượng Hồ Xuân Hương vì tiểu sử cũng như văn thơ của bà đều được lưu truyền bằng miệng chứ không phải bằng văn bản nên ít nhiều đều không mang tính xác thực. Thơ Hồ Xuân Hương còn lại đến nay đều do người đời sau ghi chép và sưu tầm trong dân gian. Sự khó khăn của vấn đề nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương đã làm cho nhà nghiên cứu phê bình Trần Thanh Mại từng nêu lên ý kiến: tạm thời xem những thơ lâu nay của Hồ Xuân Hương là những thơ thuộc loại khuyết danh. Song nếu nhìn nhận như vậy e chưa thoả đáng, sau đó ông đính chính: Chúng ta có quyền công nhận là của Hồ Xuân Hương một số trong số thơ lâu nay được coi là của bà. Nhà ngiên cứu văn học trung đại Nguyễn Lộc cũng từng khẳng định: Tư liệu về thơ Hồ Xuân Hương có nhiều rắc rối, mà tư liệu về cuộc đời của Xuân Hương cũng có nhiều rắc rối, không rõ ràng gì”. Tuy vậy, trong một số tài liệu lưu truyền về tiểu sử Hồ Xuân Hương thì bà con gái ông Hồ Phi Diễn. Ông Hồ Phi Diễn từng làm quan cuối thời đại vua Lê, sống vào thế kỉ XVIII, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mẹ của Xuân Hương quê ở Hải Dương, lúc ông Hồ Phi Diễn mất thì Xuân Hương theo mẹ ra sống ở Hà Nội. Hồ Xuân Hương từ nhỏ đã thể hiện sự thông minh sắc sảo, ham thích làm thơ, ứng đối nhanh. Giai thoại kể rằng, một lần trời mưa, bà đi chơi bỗng bị trượt chân té, mọi người cười nhạo, Xuân Hương liền đứng dậy, ứng khẩu đọc liền hai câu thơ:

Giơ tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo đất xem ngắn dài.

Chính sự nhanh nhẹn trong ứng đối ấy đã góp phần làm cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương thêm độc đáo. Bà ứng tác nhanh, gặp bất cứ cảnh vật gì trong cuộc sống và các cuộc du lãm của mình( Nguyễn Lộc cho rằng, Hồ Xuân Hương đi rất nhiều, chứng tích còn lại rất rõ trong thơ của bà), Xuân Hương đều có thơ. Vì vậy, đề tài trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương rất đa dạng, đồng thời lại rất gần gũi với người đọc, vừa có đề tài vịnh vật: thơ vịnh cái quạt, thơ về quả cau, quả mít, con ốc nhồi, con cua, bánh trôi nước, về đồng tiền hoẻn… lại vừa có đề tài về con người: thơ về sư bị ong châm, sư bị làng đuổi, thơ về học trò dốt, thơ về bà lang khóc chồng…và hoạt động của con người: tát nước, đánh đu, dệt vải…cũng có những bài thơ về cảnh đẹp thiên nhiên: Hang Cắc Cớ, Chùa Quán Sứ, hang Thanh Hoá, đài Khán Xuân, Kẽm Trống, đèo Ba Dội… Điều đặc biệt ở đây là các hình ảnh thiên nhiên. con người khi đi vào trong thơ Hồ Xuân Hương đều trở nên hoặc rất đặc biệt hoặc có tính đa nghĩa: thơ về quả mít, bánh trôi nước, về nhà sư, quan thị… đồng thời với nhiều bài thơ, người đọc đều cảm thấy ẩn đằng sau chúng là cái mỉm cười mỉa mai hoặc có chút chế giễu của nhà thơ và có nhiều bài thơ đọc xong, người đọc không thể không cười dù là nhà thơ viết về cái buồn: thơ dỗ bà lang khóc chồng, dỗ bạn khóc chồng, chửa hoang… Chính việc mở rộng đề tài làm cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương mới lạ. Bà khai thác những đề tài là những tình huống khá đặc biệt: sư bị ong châm, bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, người đàn bà khóc chồng… hoặc những sự vật không mấy ai để ý:con ốc nhồi, đồng tiền hoẻn, quả mít

Song đề tài chưa phải là yếu tố chính làm nên sự riêng biệt độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Điều làm cho các tác phẩm của nữ sĩ Tây Hồ này trở nên đặc biệt và lắm kẻ chê người khen là ở cách nhìn của nhà thơ về sự vật, sự việc, con người và hệ thống ngôn từ mà bà sử dụng để diễn đạt cách nhìn ấy. Hồ Xuân Hương có cách nhìn mới lạ về những sự vật, sự việc xung quanh mình. Với những bài thơ vịnh vật: quả mít, ốc nhồi, bánh trôi nước, quạt giấy… đều rất thực nhưng cũng rất ám chỉ, đa nghĩa. Ví dụ: bài thơ có tên là Quả mít nhưng lại viết:

Thân em như quả mít trên cây

Da nó xù xì, múi nó dày

Quân tử có thương thì đóng cọc

Xin đừng mân mó nhựa ra tay

Không một độc giả nào đọc bài thơ trên lại cho rằng bài thơ chỉ nói về quả mít hay chỉ nói về người con gái. Hay như bài thơ Bánh trôi nước:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Người ta cũng nhận thấy đằng sau hình ảnh chiếc bánh trôi được miêu tả rất rõ ràng ấy là thân phận của người phụ nữ Việt Nam dười chế độ phong kiến khắc nghiệt.

Với con người trong thơ Xuân Hương, bà cũng có cách nhìn riêng. Với lớp sư sãi, tiếp nối cách nhìn của dân gian xưa nay, nhà thơ cũng thể hiện giọng điệu mỉa mai, giễu nhại:

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm

Đi đâu không đội để ong châm

Đầu sư há phải gì bà cốt

Bá ngọ con ong bé cái nhầm!

(Sư bị ong châm)

Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta

Đầu tròn trọc lốc, áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi mọp sau lưng bảy tám bà

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha

Tu lâu có lẽ lên sư cụ

Ngất nghễu toà sen nọ đó mà!

(Nhà sư)

Với hình ảnh các danh thắng của dân tộc, nhà thơ không cùng quan điểm với cách nhìn nhận của người đời mà bà luôn nhìn các cảnh ấy bằng con mắt chế giễu, mỉa mai, là con tạo khéo bày trò, kiểu như:

Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom

Người quen cõi Phật chen chân xọc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm

Với ngôn ngữ, nhà thơ tận dụng tối đa lời ăn tiếng nói của dân gian trong thơ Nôm- một thứ chữ rất phù hợp với việc đó. Điều này ở thời kì trung đại vẫn là một điều mới lạ. Hơn hết, Xuân Hương vận dụng rất thành công, sắc sảo các từ láy, từ tượng hình, cách nói lái của miền trung vừa tăng tính đa nghĩa của tác phẩm vừa tạo sự hài hước, mang tính chất kiểu đố tục giảng thanh làm nên sự độc đáo, hiếm có của một phong cách thơ. Và đến tận bây giờ khi đọc lại các bài thơ của Hồ Xuân Hương, người hiện đại vẫn thấy hay, thấy độc đáo, vẫn cảm nhận được nét hiện đại trong thơ bà.

Một nội dung làm nên nét độc đáo nữa của thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương là ý thức về con người cá nhân thể hiện trong thơ. Và con người cá nhân ấy chính là người phụ nữ. Rất mạnh dạn, rất quyết liệt, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương dám trực tiếp bày tỏ lòng mình, quan điểm của mình, bày tỏ khát khao tình yêu hạnh phúc. Người phụ nữ cũng đồng thời trực tiếp thể hiện cảnh ngộ của mình, những lỡ làng, thân phận bé mọn, những chua chát, đắng cay khi không có được những hạnh phúc đích thực… Điều này gây nên một phản ứng khá mạnh nơi tầng lớp trí thức lúc bấy giờ. Song dẫu có bị phê phán, công kích kiểu gì thì hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn sống mãi với vai trò là giá trị đích thực của thời đại và vẫn còn đem lại những xúc động, suy ngẫm cho người đọc.

Thơ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương thể hiện ý thức về con người cá nhân

Như đã nói ở trên, con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương chính là người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ xuất hiện nhiều lần trong cả hai vị trí: gián tiếp và trực tiếp. Qua các cách xuất hiện này , họ đã thể hiện một ý thức cá nhân mạnh mẽ. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp, tất cảc khát khao hạnh phúc bày tỏ trực tiếp nỗi lòng, những chua chát, đắng cay của một đời người. Có thể gom ý thức cá nhân ấy vào trong một số ý chính: ý thức về vẻ đẹp hình thể và phẩm chất, thể hiện những khát khao tình yêu, hạnh phúc vợ chồng êm ấm nhưng lại phải chịu cảnh đời cô đơn, duyên hẩm, làm lẽ.

Ý thức cá nhân về vẻ đẹp hình thể và phẩm chất của người phụ nữ

Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện gián tiếp qua các bài thơ vịnh vật: Quả mít, Mời trầu, Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Cái quạt giấy, Con cua. Qua việc vịnh các đồ vật, con vật, nhà thơ luôn tạo cho người đọc những hình dung ám ảnh về hình tượng thứ hai, những hình tượng có những điểm chung nhau với những đồ vật, con vật có thân phận bé mọn. Tuy nhiên dù thân phận có bị coi thường như vậy nhưng người phụ nữ, mà ở đây được thể hiện ẩn giấu đằng sau vật khác, vẫn khẳng định vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp nhân cách, tấm lòng và tâm hồn thanh sạch, cao thượng, thuỷ chung của mình trong mọi hoàn cảnh:

Thân em như quả mít trên cây

Da nó xù xì, múi nó dày

(Quả mít)

Dẫu quả mít trên cây da có xù xì xấu xí nhưng đừng nghĩ bên trong nó cũng như vậy. Bên ngoài xấu xí là vậy nhưng mít đã làm cho nhiều người say lòng vì vị ngọt thơm tuyệt vời của nó. Cái hay là người con gái đã tìm được hình ảnh thích hợp với mình. Có lẽ người con gái này không đẹp. Không đẹp thì mới ví mình như hình thức quả mít, nhưng cô rất tự tin. Niềm tự tin ấy dần chuyển sang khẳng định: da nó xù xì, múi nó dày. Cái chính là chất lượng. Cái chính là tấm lòng, tâm hồn. Người phụ nữ không hề mặc cảm, tự ti về hình thức mà còn nhân đó để khẳng định thêm giá trị của mình. Phân tích điều này ta chợt nhớ tới câu ngạn ngữ phương Tây: Trên đời không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp! Chính người phụ nữ trong bài thơ đang khẳng định thêm điều đó, cô biết vẻ đẹp của mình nằm ở đâu, biết tự tin về nó, khẳng định nó. Để rồi nhẹ nhàng:

Quân tử có thương thì đóng cọc

Chớ đừng mân mó, nhựa ra tay

Rất mềm dẻo nhưng cũng rất cứng rắn, rất tự tin nhưng cũng rất khiêm tốn, hình ảnh cô gái đem lại cho người đọc một cảm giác thú vị như vừa khám phá ra một điều gì mới mẻ.

Bài thơ Bánh trôi nước đã được đưa vào chương trình Ngữ văn của THCS như một bài thơ vịnh vật và nằm trong xu hướng chung là đề cao người phụ nữ trong văn chương trung đại:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

(Bánh trôi nước)

Bài thơ cũng được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt như bài Quả mít, luật, vần được chấp hành nghiêm chỉnh. Rõ ràng đây là bài thơ vịnh vật rất đặc trưng, những đặc điểm chính của bánh trôi nước được nhà thơ thể hiện rất chính xác: trắng, tròn, chìm nổi trong nước luộc, rắn nát tuỳ thuộc người nặn, lòng đỏ. Song không cần người sành văn chương mới hiểu rằng bài thơ không chỉ đơn thuần nói về chiếc bánh trôi nước. Tầng nghĩa thứ hai của bài thơ khắc hoạ nên một hình tượng, một loại người trong xã hội phong kiến: người phụ nữ. Cũng giống như bài Quả mít, đại từ nhân xưng ở đây là “em”, cách xưng hô của con người và thể hiện vai vế thấp, bên dưới, sự khiêm tốn. Song “em” ở đây có cách nói khác với “em” trong bài Quả mít, nghĩa là bày tỏ rõ ràng về vẻ đẹp hình thức của mình ngay từ đầu: Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nét trắng, tròn ấy vừa là hình thức của chiếc bánh trôi, nhưng cũng là vẻ đẹp hình thể kiểu mẫu của người xưa quan niệm về người phụ nữ. Đại từ nhân xưng em làm cho người đọc cảm thấy gợi lên cách xưng hô của người con gái, nhẹ nhàng, dịu dàng và quen thuộc. Trong thơ vịnh vật xưa, người ta chú ý nhiều vào đặc tính chủng loại, những đặc điểm chung nhất của sự vật đều được miêu tả rõ ràng. Những bảy nổi ba chìmrắn nát đều thuộc đặc tính của bánh trôi nước, song cũng là số phận của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phụ quyền hà khắc, họ không thể có được quyền sống theo đúng nghĩa, những Tam tòng tứ đức trói buộc họ vào những điều kiện vô lí và trỏ thành công cụ, con rối trong tay người đàn ông: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Thân phận sang hèn, sướng khổ ra sao thì phụ thuộc người khác, nhưng có một điều mãi mãi thuộc về em, do em quyết định: tấm lòng son. Thêm một lần nữa, người ta thấy ý thức cá nhân về phẩm giá, tiết hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong thơ Hồ Xuân Hương trỗi dậy mạnh mẽ. Họ tự biết về những gì họ có, những gì họ phải trải qua không thể tránh khỏi, nhưng thông qua đó họ thêm nghị lực để khẳng định mình. Tất nhiên, không phải Hồ Xuân Hương là người đầu tiên viết về phụ nữ, càng không phải là người đầu tiên đề cao vai trò người phụ nữ trong sáng tác của mình, nhưng hiểu được như bà và người phụ nữ tự tin như vậy thì chỉ có trong thơ của một người cùng thân phận, từng trải qua những gì mà người phụ nữ trong xã hội cũ từng phải chịu đựng như bà.

Ý thức về cảnh ngộ bi đát của bản thân và trực tiếp thể hiện khát khao tình yêu, hạnh phúc gia đình

Con người cá nhân trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương không chỉ thể hiện ý thức về vẻ đẹp của mình mà còn dám trực tiếp bày tỏ nỗi niềm chua chát về cảnh ngộ bản thân và những khát khao hạnh phúc đôi lứa. Những bài như Tự tình 1, Tự tình 2, Tự tình 3, Mời trầu, Chửa hoang, Cảnh làm lẽ, Hỏi trăng, Già kén kẹn hom đều thể hiện nội dung trên.

Có lẽ xuất phát từ cảnh ngộ bản thân, vốn là một cô gái tài sắc, giàu cá tính, yêu đời, khát khao mãnh liệt cuộc sống hạnh phúc lứa đôi nhưng trớ trêu, cả hai lần lấy chồng, Hồ Xuân Hương đêu hai lần làm vợ lẽ, hai lần phải khóc chồng, vì vậy trong các thơ bà, ở đây là thơ Nôm, đều thể hiện nhiều những tâm tình cay đắng về phận làm lẽ, sự hẩm hiu duyên phận của cô gái lỡ thì.

Trong mục trên ,ta đã thấy cái bản ngã đầy cá tính rất tự tin về vẻ đẹp của các cô gái, thì đến đây ta lại bắt gặp những tâm sự u buồn, có đôi chút nhún nhường của người đàn bà đã trải nghiệm cuộc sống, biết thế nào là sự khắc nghiệt của chế độ không dung nạp nữ quyền:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi

(Mời trầu)

Nguyễn Lộc gọi đó là “những tâm sự chua chát”, có cái gì đó không phải là sự khiêm tốn nhún nhường nữa mà là sự cảm thấu được sự bất lực của chính thân phận mình. Chưa có bài thơ nào rõ ràng gốc tích như bài thơ này, tác giả tự xưng tên mình ngay trong tác phẩm. Bài thơ tuy có chút chua chát thật nhưng vẫn thể hiện rõ ý thức cá nhân ở hai câu cuối:

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi

Cuộc sống dẫu có bi đát thì cũng mong rằng người với người đến với nhau bằng duyên tình chứ không nên ép uổng, không nên đùa cợt với tình cảm. Có thể nói những tâm tình về cảnh ngộ cá nhân của người phụ nữ được thể hiện rất đặc sắc trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Cái nỗi lòng của cô gái lỡ duyên mà chưa hết xuân sắc, chưa hết hi vọng ở tình duyên với những oán trách, bực tức, cô đơn, buồn tủi được thể hiện rất thành công ở chùm ba bài thơ tự tình:

Tự tình 1

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông chùa không đánh cớ sao om?

Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ

Sau giận vì duyên để mõm mòm

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom?

Bài thơ đúng là lời tự tình của một nhân vật nữ tủi phận hẩm duyên ôi nhưng vẫn còn hi vọng chưa dập tắt hết những khát khao, ước mong cháy bỏng của mình trong tình đôi lứa. Chính vì niềm hi vọng ấy mà cô bực tức, oán trách đời, trách người và nhìn ra mọi vật xung quanh đều cảm thấy giận dỗi, hờn trách. Những âm thanh cuộc sống giờ đây đều trở nên vô duyên vô cớ, trêu ngươi vào nỗi lòng cô gái. Nhưng như đã nói, nhân vật nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương luôn ý thức được cái bản ngã cá nhân, biết khẳng định những giá trị của mình. Chính vì vậy, dẫu giận đời, trách cảnh nhưng họ vẫn thể hiện ý thức cá nhân của mình, về khát khao nhận được hạnh phúc, không muốn an phận mà mình không đáng phải chịu: Thân này đâu đã chịu già tom? Cách xưng hô không những thể hiện cái tôi trực tiếp mà còn rất kiêu kì, bướng bỉnh: thân này. Cái khát khao hạnh phúc ấy, cái bướng bỉnh ấy theo năm tháng dần dần biến thành nỗi buồn cô đơn, quạnh vắng khó san sẻ, khó vơi:

Tự tình 2

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế nguyệt chưa tròn

Xiên ngang mặt đát rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Hồ Xuân Hưong yêu thiên nhiên, nhưng đến lúc này thiên nhiên cũng không còn đem lại niềm vui khoả lấp được sự trống vắng, diệu vợi cô đơn trong tâm hồn của người đàn bà trong đêm quạnh quẽ. Dẫu rượu, dẫu trăng, vốn là những cứu cánh cho những thi sĩ mỗi lúc buồn với đời, vẫn không thể lấp đầy khoảng trống tâm hồn ấy được nữa. Bởi nhân vật trữ tình ở đây không chỉ là thi sĩ mà trước hết là một người đàn bà khát khao hạnh phúc duyên lứa. Nhưng xót thay, cái gì mình trông qua mau thì nó chậm chạp vô cùng. Chính nhân vật trữ tình cũng phải ngậm ngùi:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Nỗi xót thầm, đau thầm không người chia sẻ càng làm cho nỗi buồn chất cao như núi. Cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương đi “từ thách thức với cuộc sống thành một người bàng hoàng trước cuộc sống” (Nguyễn Lộc). Tác giả ví mình như chiếc bách nổi nênh giữa dòng đời:

Tự tình 3

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh

Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh

Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh

Cầm lái mặc ai làm đỗ bến

Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!

Những nỗi chán chường, cô lẻ bao choán lấy tâm hồn nhà thơ. Lúc này, khi đã va chạm hết những chua cay trong cuộc sống, nhà thơ trở nên trầm tĩnh hơn, lắng mình hơn và ý thức cá nhân cũng còn lại nỗi thất vọng, suy tư về quãng đời đã qua:

Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh

Cầm lái mặc ai làm đỗ bến

Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh

Song buồn đời cũng là một cách yêu đời, thất vọng cũng là cách thể hiện mình. Nhà thơ đã từng thốt lên hai câu tự thán:

Muôn kiếp biết là duyên không trọn

Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Ngoài ba bài tự tình trên, Hồ Xuân Hương còn thể hiện cái cảnh ngộ cá nhân của mình trong bài Cảnh làm lẽ. Cuộc đời trớ trêu đã đẩy người phụ nữ hết lòng bênh vực phụ nữ, chống lại tất cả lễ giáo phong kiến quy định áp đặt cho phụ nữ lại rơi đúng hoàn cảnh mà quyền tối thiểu của một người đàn bà có chồng được có cũng không có:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Năm thì mười hoạ chăng hay chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong!

Tất cả những gì trái ngang, éo le của chế độ bất công thể hiện rõ trong bài thơ trên. Những chua xót, cay đắng của cảnh làm lẽ làm cho Xuân Hương đã phải thốt lên căm phẫn:

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong!

Tuy nhiên đó chỉ là lời nói, là tiếng thở dài thôi chứ không phải hành động. Bằng chứng là nhà thơ không chỉ một lần làm lẽ mà có đến hai lần, không chỉ một lần chịu cay đắng về thân phận ấy mà hai lần đã từng khóc chồng! Người nữ sĩ tài hoa rơi vào bi kịch, mà không chỉ bi kịch nhỏ của bản thân mà là bi kịch lớn của thời đại. Người như bà với tầm hiểu biết vượt trước thời đại như vậy thường bao giờ cũng gặp bi kịch, bi kịch nảy sinh từ mâu thuẫn giữa thực tế và khát vọng. Cái tôi cá nhân luôn vùng vẫy vươn lên, khẳng định, thách thức, kiêu ngạo với cuộc đời nhưng cuối cùng lại bị cuộc đời đánh cho bầm dập, nhấn xuống đến mức thất vọng, bất cần, đến mức phải thốt lên khi nhân chân sự việc:

Bụng làm dạ chịu chẳng trách ai

Già kén kẹn hom ví chẳng sai

Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc

Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy

Miệng khôn trôn dại đừng trách phận

Miệng ỏng lưng eo chớ trách trời

Đừng đứng núi này trông núi nọ

Đói lòng nên phải mới ăn khoai.

Ý thức về tài năng, tính cách, phẩm giá của mình sinh lỗi thời, nữ sĩ Tây Hồ đành quay ra tự an ủi, tự kiểm điểm và đổ lỗi cho cái tôi “già kén kẹn hom” mà thôi.

Cá tính của tác giả thể hiện trong thơ.

Tuy vậy, nhắc đến thơ Nôm Hồ Xuân Hương không ai không nhắc đến ý thức con nguời cá nhân, hình bóng của tác giả trong thơ.

Chính vì hình bóng ấy mà cái cá tính của tác giả được thể hiện trong các bài thơ Nôm rất rõ. Sự thông minh sắc sảo và đầy cá tính thể hiện nhiều nhất trong các bài ứng đối với các bạn thơ và cả những tri âm trong tình yêu: Nguyễn Du, Tốn Phong, Trần Ngọc Quán, Mai Sơn Phủ, nhất là Chiêu Hổ. Đồng thời, cá tính nghịch ngợm, tếu táo và rất ngay thẳng được thể hiện trong các bài thơ về thiên nhiên, về vịnh cảnh chùa chiền, chế giễu những đối tượng loè đời, rởm đời: sư sãi, học trò. Hồ Xuân Hương ghét cay đắng cảnh chùa chiền, bà luôn viết về những cảnh thoát tục ấy bằng thái độ mỉa mai, chế giễu, nơi mà:

Người quen cõi tục chen chân xọc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm

Nơi ấy có các sư sãi- những kẻ mà Hồ Xuân Hương gọi là “lũ trọc đầu” là đối tượng chế giễu mạnh mẽ của nhà thơ. Có lúc dí dỏm:

Then cửa từ bi chen chật cánh

Nén hương tế độ cắm đầy lô

Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí

Phúc đức như ông được mấy bồ?

Có lúc nhà thơ gọi trực tiếp, ghét ra mặt, chế giễu chua cay:

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm

Đi đâu không đội để ong châm

Đầu sư há phải gì bà cốt

Bá ngọ con ong bé cái nhầm!

(Sư bị ong châm)

Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta

Đầu tròn trọc lốc, áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi mọp sau lưng bảy tám bà

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha

Tu lâu có lẽ lên sư cụ

Ngất nghễu toà sen nọ đó mà!

(Nhà sư)

Cá tính ghét những kẻ lỡm đời, khoe khoang thể hiện rõ trong chế giễu bọn học trò dốt chữ, dốt nghĩa mà hay bậy bạ:

Dắt díu nhau lên đến cửa đền

Cũng đòi học nói, nói không nên

Ai về nhắn bảo phường lòi tói

Muốn sống đem vôi quét trả đền.

Cá tính của Bà chúa thơ Nôm còn thể hiện ở sự kiêu kì, khinh bạc ở những bài thơ lúc bà còn trẻ, chưa lấy chồng, chưa ngấm men đời, sự tự ý thức vẻ đẹp ngoại hình và phẩm giá của chính mình như đã phân tích ở mục trên.

Song điểm nổi bật ở nhà thơ nữ tài hoa này không phải chỉ đề cao mình, đả kích loại người rởm đời, mà còn thể hiện tấm lòng vị tha, thông cảm sâu sắc với nỗi khổ của người phụ nữ. Nói là sâu sắc bởi không mấy ai trong xã hội ấy mà thông cảm, sẻ chia với người phụ nữ được như vậy. Hồ Xuân Hương thương người phụ nữ như chính thương thân phận mình. Bài Chửa hoang là một điển hình nhất. Ngay cả luật pháp thời ấy cũng không công nhận chứ chưa nói gì đến dư luận xã hội đối với hiện tượng chửa hoang, nhưng Hồ Xuân Hương đã có tiếng nói bênh vực hiện tượng ấy cho chị em:

Cả nể cho nên hoá dở dang

Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc

Phận liễu sao đành nảy nét ngang

Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa

Mảnh tình một khối thiếp xin mang

Quản bao miệng thế lời chênh lệch

Không có nhưng mà có mới ngoan.

Với bài thơ trên, lòng vị tha, sự thấu hiểu, cảm thông của nhà thơ được bộc lộ một cách sâu sắc mà không phải ai cũng làm được.

Như vậy, với một cách sơ bộ, chúng ta đã thấy được ý thức cá nhân, cụ thể ở đây là ý thức về vai trò, phẩm giá, về cảnh ngộ và khát khao của người phụ nữ vượt lên hoàn cảnh được thể hiện rất thành công và đem lại nhiều thú vị trong thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương.

Kết luận

Dù ở bất kì thời đại nào, nền văn học nào, ý thức về con người cá nhân vẫn luôn đem lại cho người đọc nhiều cảm nhận thú vị, nhất là tìm được hướng tiếp cận các tác phẩm dễ dàng hơn, bình thơ, bình văn được sâu sắc hơn. Hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của thơ văn nước ta, mà biểu hiện trong đó là cái ý thức về con người cá nhân với rất nhiều khía cạnh khác nhau, rất đa dạng nhưng cũng rất thống nhất trong phong cách. Cũng chính bởi ý thức về bản ngã cá nhân ấy, ý thức về vẻ đẹp từ hình thể đến tâm hồn, ý thức về tình yêu và những khát khao hạnh phúc trần tục, ý thức về cảnh ngộ cá nhân để từ đó hiểu sâu hơn về nhân tình thế thái, đồng thời dám nói đến và đánh thức miền bản năng sâu kín và vốn dĩ bị đè nén của con người, nhất là người phụ nữ, trong xã hội cũ đã tạo cho thơ Hồ Xuân Hương tính hiện đại đi trước thời đại và không ít người ghanh ghét, tuỳ sức đổ tội. Tuy vậy, Xuân Hương vẫn là Xuân Hương, mặc kẻ chê người khen, con người, cuộc đời và thơ văn của bà vẫn sống mãi trong hồn thơ dân tộc Việt, đến hàng trăm năm sau người đời vẫn kính nể và yêu mến./.


Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Thị Yến
Xem chi tiết
Vogiahuy
Xem chi tiết
duc dung
Xem chi tiết
Huy Ngo
Xem chi tiết
Mạnh Nguyễn
Xem chi tiết
Phương Uyên
Xem chi tiết
Phạm Thư
Xem chi tiết
Gyuas
Xem chi tiết
ngọc linh
Xem chi tiết