Thời gian gần đây, dư luận quan tâm nhiều đến tình hình phát triển của tiếng Việt trong cơ chế thị trường thời mở cửa. Trước sự phát triển năng động của cuộc sống, tiếng Việt buộc phải mở rộng. Việc phát triển vốn từ vựng theo nhiều hướng khác nhau. Tiếng Việt có thể vay mượn, hoặc tổ chức lại những yếu tố đã có để tạo ra từ mới. Hoặc tự sáng tạo ra từ ngữ có nghĩa mới.
Không thể phủ nhận sự đóng góp thiết thực về ngôn ngữ của giới trẻ. Song, nó cũng gây ra những hệ lụy to lớn đối với vấn đề giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trong thời đại ngày nay. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và mạng Internet, ngôn ngữ “chát” cũng đã ra đời trong giao tiếp của giới trẻ. Ngôn ngữ này, ngày càng phát triển và có những tác động lớn đến tiếng Việt.
Thân bài: Phát triển hệ thống từ ngữ mới là xu thế tất yếu của thời đại.Sự gia tăng vốn từ vựng tiếng Việt có mặt tích cực đáng kể. Trước hết nó đã đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu giao tiếp hiện nay. Nhất là trong các lĩnh vực hoạt động kinh, xã hội, nghiên cứu khoa học và điều hành xã hội nói chung. Đồng thời, nó làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn.
Cũng không thể phủ nhận rằng, có nhiều từ ngữ mới có yếu tố sáng tạo, chuẩn xác, tinh tế, làm cho tiếng Việt thêm đẹp. Sự phát triển ngôn ngữ trong thời đại mới giúp cho vấn đề giao tiếp trở nên thuận lợi và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, có một lớp từ ngữ mới của thời đại công nghệ thông tin ra đời không dựa trên nguyên tắc cấu thành ngôn ngữ. Nó được sử nhiều trong giới trẻ hiện nay làm mất đi sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt.
Ngôn ngữ “chát” là gì?Ngôn ngữ “chat” là loại ngôn ngữ mà giới trẻ sáng tạo ra khi tham gia vào mạng xã hội). Ngôn ngữ “chat” phát triển theo trào lưu mạng xã hội đang bùng nổ. Xu hướng này ngày càng lan rộng khi lượng người sử dụng internet và điện thoại di động ngày càng tăng. Đây là loại ngôn ngữ được sáng tạo, biến đổi liên tục và xâm nhập vào cả đời sống xã hội.
Nhưng dù xuất hiện với lí do gì đi nữa, ngôn ngữ “chat” cũng gây ra nhiều cuộc tranh cãi ngay từ lúc ra đời. Đây là điều mà chưa loại ngôn ngữ nào trước đó làm được. Tất cả các cuộc tranh cãi đó đều xoay quanh tính tích cực và tiêu cực của ngôn ngữ chat đối với tiếng Việt truyền thống và xã hội.
Thực trạng của việc sử dụng ngôn ngữ tùy tiện của giới trẻ hiện nay:Sự sáng tạo chính là động lực phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cái mới lạ không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với cái tích cực, cái hay. Bên cạnh yếu tố tích cực, sự tăng trưởng “nóng” của từ vựng tiếng Việt trong thời gian gần đây cũng thể hiện không ít các yếu tố tiêu cực. Hiện trạng đó dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng về vốn từ của tiếng Việt.
Ở Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây nền kinh tế có những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, truyền thông có nhiều thành tựu lớn. Xu thế hội nhập đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược đều có sự thay đổi lớn. Giới trẻ luôn là đối tượng có sự bắt nhịp nhanh nhất với những thay đổi này. Cùng với tâm lý lứa tuổi, giới trẻ đã tạo cho mình những thay đổi. Những thay đổi lớn đến mức người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên riêng. Chẳng hạn như thế hệ “8X”, “9X”, “công dân thời @” hay “tuổi teen”.
Ngôn ngữ “lai căng” được cấu thành không dựa trên một nguyên tắc khoa học nào. Tất cả được tự tạo ngẫu hứng và tự phát. Ngôn ngữ ấy đang được sử dụng trên phổ biến các trang điện tử hiện nay. Nó hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ tùy tiện trong các bạn trẻ. Tiếng Việt hiện đang có sự lai căng, nhí nhố, đánh mất đi trí tuệ, linh hồn và bản sắc dân tộc Việt.
Lướt qua một vài trang mạng xã hội ta dễ bắt gặp những cách trình bày khác lạ của các bạn trẻ. Ta cũng dễ dàng nhận ra quy luật của kiểu ngôn ngữ này.
Trước hết là sự đơn giản hóa ngôn từ giao tiếp: “yêu” viết thành “iu”, “biết” viết thành “bít”, ,…
Kiểu viết tắt tùy tiện, cẩu thả cũng là một xu thế hiện nay: “không” viết thành “ko”, “với” viết thành “vs”, “cũng” viết thành “cg”, “quá” viết thành “wá”, “scd” (sao cũng được), “ko hc dì” (không học gì)
Kiểu biến âm theo lối đơn giản hóa từ ngữ: “hỏng biết” viết thành “hẻm biết”, “biết chết liền” viết thành “bít chết liền”, “tình yêu” viết thành “tềnh iu”, ..
Kiểu biến nghĩa vụng về, dung tục: “cùng nhau đi trốn”, “cùi bắp”, “tin vịt”, “báo lá cải”, “chạy mất dép”, “đá đít”, “bốc hơi”, “bó tay.com”,….
Kiểu thành ngữ tối nghĩa: “nhỏ như con thỏ”, “đau khổ như con hổ”, “chán như con gián”, “láo như con cáo”,….
Kiểu chơi chữ Tây-ta: “G92U” là “chúc buổi tối”, “4U” là “cho bạn”, “2” là “chào”, “k” là “nghìn”,…
Từ một vài trường hợp đơn lẻ, ngôn ngữ chát đã gây nên một làn sóng mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng trong giới trẻ.
Hậu quả của việc sử dụng ngôn ngữ “chát” trong giao tiếp hằng ngày:Trước hết, loại ngôn ngữ này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời có tác đông sâu sắc đến văn hóa giao tiếp trong xã hội. Những từ ngữ chuẩn mực với đầy đủ hàm nghĩa và sự biểu đạt của nó không còn được sử dụng. Thay vào đó là lớp ngôn ngữ lai căng, cẩu thả, tối nghĩa, dung tục lại được phổ biến. Điều đó rất nguy hại, có thể làm biến dạng ngôn ngữ và nền văn hóa dân tộc.
Lệch lạc trong ngôn ngữ là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa về nhân cách. Không những thế nó còn gây nên lối sống buông thả, không còn tôn trọng pháp luật. Sự lệch chuẩn của ngôn ngữ giao tiếp làm nảy sinh những suy nghĩ sai lầm. Từ đó dẫn đến các hành vi phạm tội trong giới trẻ.
Lệch lạc, thiếu chuẩn mực trong giao tiếp là nguyên nhân gây ra mâu tuẫn, xung đột. Nhiều vụ ẩu đả dẫn đến án mạng cũng chỉ bởi vì “lời nói khó nghe” hoặc “khó hiểu” hoặc nhìn “thấy ghét” của các thanh niên.
Giao tiếp kém tế nhị khiến cho con người xấu xí hơn trong mắt người khác. Người có lời nói thô tục, thiếu chân thực thường không được mọi người yêu thương, hợp tác hay giúp đỡ. Họ còn bị xa lánh, bị xua đuổi trong cộng đồng.
Từ việc lệch lạc trong ngôn ngữ, thái độ sống của con người cũng lệch lạc theo đó. Họ thường tỏ vẻ ta đây, khó chịu với người khác. Họ thường ghét nhưng gì thuộc về cái đẹp, cái chuẩn mực. Họ thương kết giao với những người thấp kém, tầm thường. Sớm muộn gì họ cũng tự rơi vào hố sâu của các tệ nạn xã hội mà thôi.
Nguyên nhân làm nảy sinh hiện tượng ngôn ngữ “chát”:Việc đơn giản hóa không phải không có nguyên nhân chủ quan khách quan của nó. Đây cũng không phải xu hướng phát triển mới lạ bây giờ mới xuất hiện. Đó là một thực tế, một quy luật có tính phổ biến trong sự phát triển của ngôn ngữ. Quy luật này không ai có thể phá vỡ nổi. Cũng không có đạo luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được. Cho dù ghét nó người ta cũng vẫn phải nhượng bộ.
Việc hình thành các mạng xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ tự xây dựng một thế giới riêng mình. Họ được thỏa sức làm điều họ muốn trong một thế giới ảo. Trong thế giới đó, nhiều chuẩn mực, lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn nữa. Vì thế, những phong cách “thời thượng” và cá tính “chính hiệu” đã ra đời.
Cùng với đó là sự lạm dụng các yếu tố ngoại ngữ, khẩu ngữ, cách diễn đạt để gây “ấn tượng”, “giật gân”. Thậm chí những sáng tạo này còn được các phương tiện truyền thông “tiếp sức” mạnh mẽ. Nhiều nhà quảng cáo đã sáng tạo ra những kết hợp kiểu biến danh từ thành tính từ chưa có trong từ điển. Điển hình như: ”một cảm giác thật là yomost”, ‘‘một phong cách thật xì-tin”, “sạch hơn cả siêu sạch”,…
Sự giảm sút tình yêu tiếng Việt hiện nay là đáng lo ngại. Ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của một bộ phận nhân dân đang xuống cấp. Xu hướng lai căng, vọng ngoại đang sôi nổi. Một số bạn trẻ thích “hiện đại”, thích “thể hiện cá tính, đẳng cấp” khoa trương một cách quá đáng.
Một số doanh nghiệp nắm bắt tâm lý sính ngoại của người dân nên triệt để khai thác. Từ tên thương hiệu, vỏ bao bì, cách quảng cáo… đến việc ăn theo những từ mới. Một số người thường thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt pha trộn nhiều tiếng nước ngoài. Hay cách diễn đạt cầu kì, khó hiểu. Hoặc dùng các từ nước ngoài một cách không cần thiết…
Giới trẻ hiện nay thiếu hụt tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho con người thiếu quan tâm đến ngôn ngữ giao tiếp. Họ thích nói ngắn gọn. Họ ngại dùng từ hán Việt. Từ đó dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt cả về từ ngữ lẫn ngữ pháp. Một thực trạng dễ thấy là lời nói của giới trẻ ngày càng khô khan do vốn từ nghèo nàn.
Việc sáng tạo ngôn ngữ không dựa trên các nguyên tắc khoa học và hoàn cảnh giao tiếp khiến cho ngôn ngữ tuổi “teen” rắc rối, khó hiểu, hoặc vô nghĩa.
Sự thiếu tích cực và“chậm chân” của công tác nghiên cứu, phản biện về ngôn ngữ của các chuyên gia trước thực trạng xã hội khiến cho hiện tượng này leo thang. Chữ viết vốn là một công cụ để ghi lại ngôn ngữ. Vì thế những biểu hiện lệch lạc trong ngôn ngữ nói lâu dần sẽ được phản ánh trong ngôn ngữ viết. Với những thực tế như trên hẳn sẽ không còn là điều ngạc nhiên nữa.
Bên cạnh những nét độc đáo, những sáng tạo đáng ghi nhận vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần có sự can thiệp, chấn chỉnh kịp thời để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Giải pháp khắc phục việc sử dụng ngôn ngữ “chat” không đúng mục đích giao tiếp:Ngôn ngữ vốn là một hiện tượng xã hội. Sự phát triển hay tụt lùi của ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn xã hội. Vì vậy, những điều chỉnh dù nhỏ nhất cũng cần có sự tham gia của xã hội cộng đồng. Một xu hướng xấu có thể nảy sinh trong vòng vài năm. Nhưng phải mất rất nhiều năm để chấn chỉnh, điều hướng và khắc phục hậu quả của nó.
Các bạn trẻ cần tích cực tham gia trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc. Không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.
Các diễn đàn (foroom) và các trang mạng xã hội cần xây dựng quy chế rõ ràng và phù hợp. Hướng diễn đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo. Một biểu tuượng đẹp trong ngôn ngữ rất dễ thu hút người xem làm theo.
Gia đình cần sự quan tâm chia sẻ từ các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay. Từ đó, đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất. Hãy giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc giao lưu học hỏi lẫn nhau nhiều hơn. Đồng thời, trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình.
Thầy cô là những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ. Thầy cô chính là những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình. Bởi vậy, mỗi thầy cô cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. Đặc biệt, là xây dựng cho mình một ngôn phong trong sáng, chuẩn mực.
Nhà trường cần định hướng cho các em những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt. Từ đó, nâng cáo ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó.
Cơ quan chức năng cần xây dựng một chương trình học tiếng Việt phù hợp và khoa học. Trên tinh thần giảm tải những kiến thức về ngôn ngữ học tiếng Việt. Coi trọng kỹ năng giao tiếp và phát triễn kỹ năng sống cho học sinh.
Các cơ quan thông tin truyền thông cần xây dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội. Cần có thái độ kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn. Kìm chế hững xu hướng không phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt. Từ đó, giúp giới trẻ có được định hướng đúng đắn.
Bài học:
Luôn rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp. Luôn vận dụng đúng đắn các phương tiện giao tiếp để bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Khi nhân cách chưa định hình thì cần phải rèn luyện bản thân theo những chuẩn mực tốt đẹp hơn nữa. Tránh lệch lạc nhân cách dẫn đến các hành vi sai trái.
Góp ý, điều chỉnh những hành vi lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của bạn bè. Vận dụng ngôn ngữ mới nhưng không lạm dụng nếu Tiếng Việt có từ tương tự. Rèn luyện ý thức trân trọng và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt.
Kết bài:Như vậy, vấn đề văn hóa ngôn ngữ và giáo dục văn hóa ngôn ngữ cho thế hệ trẻ nhất là cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Trong đó, bản thân giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại.
chúc bạn hok tốt nha!
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, cùng với sự phát triển của xã hội về mặt kinh tế công nghệ thì Tiếng Việt, với vai trò là đại diện cho tiếng nói của một dân tộc đang đứng trước nhiều thách thách thức của thời đại. Chưa bao giờ khẩu hiệu “ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” lại được giơ cao hơn lúc này. Chính là bởi vì thế hệ thanh thiếu niên thế kỷ 21 hay còn gọi là thế hệ @ đã và đang xây dựng cho mình một hệ thống ngôn ngữ mới mà ngôn ngữ này đã và đang làm ảnh hưởng quá nghiêm trọng đến tiếng Việt truyền thống.
Có câu “ phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” điều này đã cho thấy tiếng việt của chúng ta rất phong phú và giàu đẹp. Tuy nhiên, nếu chỉ lướt qua các trang mạng xã hội của các bạn trẻ thì không quá khó để chúng ta bắt gặp một hệ thống ngôn ngữ tuổi @. Hàng loạt các từ như : Bít chít lìn (biết chết liền), wá, wyển ( quá, quyển); wen(quen); wên (quên); iu (yêu); lun (luôn); bùn (buồn); bitk?…. đang được phổ biến tràn lan đủ để khiến các ông bố bà mẹ bước vào một ma trận ngôn ngữ.
Thậm trí hệ thống ngôn ngữ này đã phát triển nhanh đến mức các bạn còn sáng tạo ra bằng cách thêm vào trong câu nói vài chữ cái tiếng Ả Rập mà theo các bạn thì A = CL hay B = 3… hệ thống chữ này còn thách thức cả thế hệ 8x đời cuối và 9x đời đầu chứ đừng nói đến các thế hệ 7x hay 6x. Cùng với đó là hệ thống tiếng lóng, và những câu hay hay ngộ ngộ như “Sao phải thốn” “sao phải xoắn?” “tha thu” … Nghĩa thực sự của các câu nói này là gì thì không ai biết chỉ cần vui tai ngộ ngộ là được các bạn trẻ sử dụng và trở thành xu hướng.
Từ những điều trên có thể thấy việc sử dụng một ngôn ngữ khác trong giới trẻ hiện này không còn quá xa lạ mà trở thành một xu hướng của xã hội. Đặc biệt ở lứa tuổi ngồi trên ghế nhà trường các bạn lại càng thường xuyên sử dụng. Rất nhiều các bạn trẻ coi đây là “mốt” và đã sử dụng thường xuyên, bạn bè mình dùng ngôn ngữ đó mà mình không biết thì khác gì mình quê mùa lạc hậu. Vậy là từ giờ ra chơi, đi đường, đi học, nói chuyện trên mạng… hệ thống ngôn ngữ này được sử dụng một cách triệt để.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này những nguyên nhân đầu tiên phải kể đến chính là hệ thống ngôn ngữ internet, ngôn ngữ điện thoại di động, ngôn ngữ quảng cáo, ngôn ngữ chợ búa…Sự pha tạp của tất cả những điều này đã tác động đến suy nghĩ của giới trẻ và kích thích chúng tạo nên một hệ thống ngôn ngữ mới. Ví dụ, như do thiết kế của bàn phím điện thoạt hay máy tính rất đặc thù nên các bạn trẻ thường có gắng tìm cách để làm sao nhắn tin nhanh nhất vì vậy thay vì viết từ quên, thì viết từ “wen” sẽ nhanh hơn nhiều và tiết kiệm được ký tự. Cùng với đó là các tác phẩm truyền hình, hay quảng cáo thường xuyên sử dụng hệ thống ngôn ngữ lóng để tăng sự thu hút điều này đặc biệt thu hút giới trẻ và chúng nhanh chóng trở thành phong trào cũng như xu hướng trong một thời gian dài.
Tuy nhiên việc viết và sử dụng tiếng lóng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Tiếng Việt sẽ bị ảnh hưởng của tiếng lóng làm mất đi những giá trị đích thực và mất đi sự trong sáng. Sử dụng tiếng lóng quá nhiều hay từ ngữ không đúng với giá trị của nó còn khiến tính cách và đạo đức của giới trẻ thay đổi và ảnh hưởng xấu. Môi trường xã hội, sự giao tiếp giữa người với người sẽ bị pha tạp một thứ ngôn ngữ không hợp lệ.
Dù biết rằng ngôn ngữ là sự phản ánh đời sống qua từng thế hệ. Việc thêm các từ mới và kho tàng ngôn ngữ Việt là điều tốt và không thể tránh được theo thời gian. Tuy nhiên, trước thực trạng đó chúng ta cũng cần có các biện pháp để bảo tồn duy trì và phát huy những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt.
Để làm được điều đó chúng ta cần uốn nắn giới trẻ trong cách sử dụng ngôn ngữ, để giúp các em hiểu rằng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là cực kỳ cần thiết. Chúng ta cũng không quá khắt khe với những cách nói dí dỏm hài hước mà hãy chấp nhận và sử những chỗ chưa được để thêm vào kho tàng ngôn ngữ. Sáng tạo là giúp cuộc sống của thú vị hơn là một tính cách đáng được khích lệ ở giới trẻ. Nhưng sáng tạo cái gì và sáng tỏa như thế nào để không làm mất đi nét đẹp của tiếng Việt mà ngày càng phát huy nó mới là điều đáng quý.
Chỉ trong vài năm gắn đây, cuộc sống và xã hội đã thay đổi rất nhiều và giới trẻ đã góp một phần không hề nhỏ vào những thay đổi ấy. Thay đổi của giới trẻ giờ đây không dừng lại ở tóc tai, trang phục, mà đã lan sang cả cách suy nghĩ và cách để diễn đạt những suy nghĩ ấy. Tiếng mẹ đẻ trong sáng đã dần dần được thay thế bằng những ngôn ngữ "xì tyn”. Ngôn ngữ “trong sáng” và “giàu có” như tiếng Việt đã được “thoát xác” hoàn toàn khỏi các quy chuẩn và hầu hết được giới trẻ thay bằng thứ ngôn ngữ “hok aj hju” và dùng tiếng lóng trong cộng đồng teen hằng ngày. Người trẻ ngày nay không chọn cách ra sạp mua báo Thanh niên, Tuổi trẻ về đọc, không bật ti vi vào sáu giờ sáng để xem “thời sự”, không hỏi bố mẹ, ông bà xem “thế giới hôm nay thế nào?”. 9x chỉ cần ngồi vào bàn, bật PC, gõ một địa chỉ trang web là nắm được tình hình của cả thế giới. Cuộc sống công nghiệp nhanh và hiện đại cũng đòi hỏi con người phải bắt kịp với chúng. Thế là vài năm trước, ra đời thứ ngôn ngữ “xj tyn”. Ban đầu, giới trẻ chỉ dùng thứ ngôn ngữ ấy trên mạng, cụ thể là khung chat và các diễn đàn và chỉ tìm cách biến đổi sao cho có thể gõ thật nhanh. Thế là “j” thay thế cho “gì”, “w” thay thế cho “qu”, “ko" thay thế cho “không”,… dần dần những ngôn ngữ ấy được teen bê từ máy tính ra ngoài cuộc sống đời thực. Giới trẻ dùng những từ, những chủ mới sáng tạo ra để chép bài cho nhanh, viết thư cho tiện. Nếu như mục đích ra đời ban đầu của ngôn ngữ teen là để thuận tiện nhắn tin hay “chát chít”, nói chuyện trên mạng thì giờ đây ngôn ngữ ấy trẻ nên rắc rối hơn bao giờ hết. Qua rồi các thời teen mình dùng chèn thêm tiếng Anh vào cuộc nói chuyện, tiếng Việt của teen bây giờ thay đổi hoàn toàn. Ví dụ đơn giản nhất là “xin chào” thành “sin trào” hay “quên” thành “cuen”, “cho em xin hai chữ bình yên” sẽ là “cko iem xyn hạ CkỮ bỳnk yên”! . Đây là kiểu chữ phổ biến nhất mà teen mình sử dụng hàng loạt hiện nay. Kiểu chữ này mọi người không biết cũng có thể luận ra được. Nhưng thời gian gần đây, các blog, forum, mạng xã hội đều rộ lên phong trào cho ra đời thứ ngôn ngữ thoáng nhìn có thể tưởng là tiếng Thái, tiếng Ả Rập. Một vài chữ cái trong bảng chữ cái của thứ “tiếng Ả Rập” đó là A : cn; B = 3 ho’c B; c = <; D J); E = F-;… kiểu chữ này còn chưa thật sự quen thuộc với tất cả các bạn trẻ bây giờ- 9x đời đầu và 8x đọc đoạn chữ kiểu này bó tay là cái chắc!
Không chỉ phát minh ra “tiếng Ả Rập” lưu truyền mạnh mẽ trên Internet, teen còn sáng tạo ra vô cùng nhiều từ hay ho để sử dụng hằng ngày. Câu cửa miệng của giới trẻ bây giờ là “chém gió”, phổ biến đến với 6x, 7x cũng sử dụng
ngon ơ. Rồi “sau phải xoắn?”, “sau phải đến”, “sao phải thốn” và vô cùng những từ ngữ chẳng hiểu ở đâu ra và có ý nghĩa gì? Chỉ biết là chúng nghe la tai, lúc nói thì cũng thấy hay hay, thế là phổ biến? Những từ ngữ ấy được sử dụng rộng rãi ở bất cứ nơi đâu, trường học hay thậm chí là cả văn phòng, công sở – nơi mà bây giờ cũng có người trẻ.
Giới trẻ hiện nay bị khá nhiều lời chỉ trích vì sử dụng thứ ngôn ngữ khó hiểu này. Những người thật sự trưởng thành coi đó là trò vô bổ, không thích giới trẻ sử dụng ngôn ngữ phức tạp ấy. Nhưng thực ra theo ý kiến chủ quan của tôi, cho ra đời ngôn ngữ teen của riêng giới trẻ không phải là điều đáng chê trách. Giới trẻ hiện nay có suy nghĩ rất thoáng về cuộc sống. Sáng tạo ra thứ ngôn ngữ mới đơn giản chỉ là muốn làm cho cuộc sống trở nên thú vị. Họ muốn làm mới mẻ mọi thứ xung quanh, nhìn cuộc sống bằng đôi mắt trẻ trung. Họ muốn đặt tên cho thế giới của riêng mình. Ngôn ngữ mà giới trẻ sử dụng phần nào phản ánh tính cách, cá tính của họ.
Tuy nhiên, tôi cũng không đồng tình với cách sử dụng từ tiếng lóng của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Thế hệ trẻ ở các nước Anh, Mĩ có viết tắt tiếng của mình như: “wrodn?” là “what are you doing?” (bạn đang làm gì thế hay “Pir” tức là “parents in room” nghĩa là “bố mẹ đang ở trong phòng ,… Giới trẻ Việt Nam tiếp thu cách viết nhanh chóng theo những lối tiêu cực. Các bạn trẻ Việt Nam sử dụng các cụm từ có ý nghĩa chửi tục, những cụm từ thể hiện trạng thái bức xúc, ức chế tiêu cực. Điển hình là “sh*t”, “utf”, “nth”,… những cụm từ như “damn” trẻ nên không hề xa lạ. Thậm chí, người trẻ dùng chúng nhiều hơn người sáng tạo ra chúng. Bên cạnh đó, họ cũng tiếp thu những cụm từ đáng yêu như “boo”, “France”… Nhưng số lượng người sử dụng ngôn ngữ không tiêu cực là số ít. Sử dụng ngôn ngữ khó hiểu không phải là điều đáng lên án như tôi đã nói ở trên. Vấn đề là cách họ sử dụng chúng. Dùng những từ ngữ độc đáo để trò chuyện trên mạng với bạn bè, xả stress sau những giờ học và làm việc căng thẳng thì tốt nhưng lạm dụng những từ ngữ, cách nói đó quá mức quả là không nên. Tôi có một người bạn sử dụng ngôn ngữ đó thường xuyên, cả khi nói chuyện ngoài, cũng như “chát chít” trên mạng. Một lần, cô bạn chia sẻ với tôi chuyện buồn qua tin nhắn. Khi đọc tin nhắn của bạn mình, tôi chẳng thấy có chút cảm xúc nào hết, “mình” thành “mek”, “không” thành “ko”, “lúc” thành “lúk”,… tiếng Việt giờ đã không còn trong sáng theo cách riêng vốn có trong đời sống giới trẻ. Ngôn ngữ teen đang dần làm xấu đi hình ảnh giới trẻ trong mắt những người lớn tuổi không chấp nhận sự thay đổi.
Cần phải khẳng định lại, ngôn ngữ “xj tyn” và mục đích sáng tạo ra nó của giới trẻ là không xấu. Chỉ có cách biến đổi quá nhanh và sử dụng quá nhiều là điều chúng ta cần lưu ý. Sáng tạo, làm cho cuộc sống thú vị hơn là một nét tính cách đáng yêu của thế hệ trẻ. Nhưng đừng vì thế mà đánh mất đi nét đẹp của tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ. Phát huy là tốt nhưng nếu không biết gìn giữ, sẽ có ngày chúng ta đánh mất ngôn ngữ của mình.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Tiếng Việt, trong vai trò ngôn ngữ văn hóa dân tộc đã có những thay đổi nhanh chóng xét trên nhiều phương diện. Một trong những thay đổi dễ nhận thấy nhất và luôn dành được sự quan tâm của xã hội, đó là ngôn ngữ của giới trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Vấn đề càng trở nên “nóng” hơn khi gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, những ý kiến trái chiều về vấn đề này được đưa ra bàn luận sôi nổi. Có nhiều ý kiến bênh vực cho xu thế phát triển tự nhiên của ngôn ngữ của giới trẻ, nhưng đa phần đều cho rằng sự phát triển đó là “lệch lạc”, “đáng báo động”, thậm chí “không thể chấp nhận được” [3] Vậy thực chất của vấn đề là gì; Nó nghiêm trọng đến mức nào; và cần nhìn nhận ra sao? đang là những câu hỏi thu hút được sự quan tâm của xã hội, của các nhà nghiên cứu. Trong khuôn khổ, phạm vi của một bài báo, chúng tôi không có tham vọng trình bày đầy đủ diện mạo của vấn đề mà chỉ trình bày tóm lược một số nét chính, cũng như những nhận xét có tính chủ quan của cá nhân về vấn đề này.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mang đến cho con người nhiều điều kiện hơn để thay đổi chính cuộc sống của mình. Ở Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây những tiến bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, truyền thông đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược. Giới trẻ luôn là đối tượng có sự bắt nhịp nhanh nhất với những thay đổi này. Cùng với tâm lý lứa tuổi, giới trẻ đã tạo cho mình những thay đổi. Những thay đổi lớn đến mức người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên riêng: thế hệ “8X”, “9X”, “những công dân @” hay “tuổi teen”. Trong phạm vi này, chúng tôi dùng khái niệm giới trẻ để cùng nói về những cách gọi tên ở trên. Ở đây chúng tôi cũng chia hai phạm vi để trình bày thực trạng ngôn ngữ của giới trẻ. Đó là ngôn ngữ của giới trẻ trong đời sống thực (thế giới thực) và ngôn ngữ của giới trẻ trong đời sống ảo(thế giới ảo).
Việc hình thành các mạng xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ được thỏa sức xây dựng một thế giới ảo và một cuộc sống ảo cho riêng mình. Trong thế giới đó nhiều chuẩn mực, lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn và vì thế những phong cách và cá tính “chính hiệu” đã ra đời. Lướt qua một vài “chat room” ta bắt gặp những cách trình bày, biểu cảm khác lạ của ngôn từ. Về cơ bản, chúng tôi tổng hợp được những xu thế ngôn ngữ “chat” của giới trẻ như sau:
Xu hướng đơn giản hóa. Đây là khuynh hướng phổ biến nhất. Chỉ cần lướt qua những “chat room”(phòng chat), forum (diễn đàn) chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những kiểu diễn đạt như: wá, wyển ( quá, quyển); wen(quen); wên (quên); iu (yêu); lun (luôn); bùn (buồn); bitk? (biết không?); bít rùi (biết rồi); mí (mấy); dc (được); ko,k (không); u (bạn, mày), ni (nay), en(em), m (mày), ex (người yêu cũ), t (tao), hem (không), Bít chít lìn (biết chết liền) v.v.
Việc việc đơn giản hóa không phải không có nguyên nhân chủ quan khách quan của nó. Đây cũng không phải xu hướng phát triển mới lạ bây giờ mới xuất hiện mà đó là một thực tế, một quy luật có tính phổ biến trong sự phát triển của ngôn ngữ- quy luật tiết kiệm. Đó là quy luật không ai có thể phá vỡ nổi, không có đạo luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được, dù ghét nó người ta cũng vẫn phải nhượng bộ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó là trong chính tả của Tiếng Việt vẫn còn tồn tại sự bất hợp lý khi sử dụng nhiều ký hiệu để biểu thị cùng một âm vị: K,Q, C cùng để biểu thị âm vị / K/; hay Z, d, gi cùng để biểu thị âm /z/.v.v. Ngoài ra, khuynh hướng này còn bắt nguồn từ việc viết tắt, đây cũng là một trong những cách thức thường gặp khi giao tiếp bằng văn bản và điều này đã được giới trẻ vận dụng “triệt để” trong thế giới ảo của mình: “đi” thành “dj”; “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”, ...; “bây giờ” thành “bi h”; “biết rồi” thành “bit rui”; Chữ “qu” thành “w”; Chữ ““gì” thành “j”; Chữ “ơ” thành “u”; Chữ “ô” thành “u”; Chữ “ă” thành “e”; Chữ “ng” ở cuối thì chỉ còn chữ “g”; M = E = em. N = A = anh hay Chèn tiếng Anh vào như: if = nếu, U = you = bạn, : g9 (Good night – chúc buổi tối vui vẻ), 2 (hi- chào).v.v
Xu hướng phức tạp hóa. Xu hướng này tuy không phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất nhưng nó vẫn tồn tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu”của giới trẻ: dzui (vui), thoai (thôi), dzìa(về), roài(rồi), khoai(khó) ><in (xin), lÔ0~i(lỗi), em4jl (email).v.v. Trong xu hướng phức tạp hóa một trong những nét đặc trưng cần phải nhấn mạnh đó là cách thể hiện, trình bày nội dung văn bản. Với mong muốn được thể hiện, khẳng định bản thân (do tâm lý lứa tuổi) xu hướng này vì thế, càng được phát huy mạnh mẽ. Sự phức tạp trước hết được thể hiện thông qua hàng loạt các biểu đạt tình cảm đi kèm :( buồn; :(( , T _ T khóc; :) cười; :))))) rất buồn cười; =.= mệt mỏi; >!< cau có; :x yêu; :* hôn, ^^, vui v.v. Sự phức tạp còn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ: “ThiẾu zẮng a e hUmz thỂ shỐng thÊm 1 fÚt jÂy nÀo nỮa” (Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút giây nào nữa). Xu hướng này còn phát triển đến mức ngay cả những người “trong cuộc” nhiều khi cũng không thể hiểu hết được những nội dung do những sáng tạo mang nặng tính cá nhân nhu vậy. Dương Đăng Trúc tác giả phần mềm v2V (phần mềm dịch ngôn ngữ “chat”) đã phải liên tục cập nhật phần mềm nhưng chính tác giả cũng thừa nhận không thể theo kịp xu hướng phát triển của loại ngôn ngữ này. Dưới đây là một đoạn trích từ yahoo [4] được phần mềm v2V dịch lại:
Trên đây chúng ta đã phần nào khảo sát hoạt động giao tiếp của giới trẻ, trong môi trường mà chúng ta tạm gọi là thế giới ảo. Vậy những gì đang diễn ra trong thế giới ảo đó có ảnh hưởng đến đời sống thực tại của giới trẻ hay không? Nếu có, nó đã ảnh hưởng đến mức độ nào? Trong phạm vi này, chúng tôi chưa có điều kiện để trả lời đầy đủ, chính xác những câu hỏi trên chỉ xin trích dẫn một số những biểu hiện cụ thể. Qua đó giúp chúng ta thấy được phần nào diện mạo của vấn đề.
Nổi lên như một cách giao tiếp thời thượng được đông đảo bạn trẻ cổ xúy mà chúng ta có thể bắt gặp hằng ngày từ nhà ra ngõ, từ công sở đến trường học: ''Đi gì mà đầu lâu thế?'' - ''Ừ, tại đường Hà Đông quá!''; ''Bắc Cạn đi, các ông ơi!''; ''Cả lớp ơi, Lệ Quyên vào đi chơi thôi!''; ''Em cà-rốt quá chị ạ, biết tay ấy Lê Văn Sỹ thế thì em phải việc gì phải mở nhiều bia cho hắn Lục Tốn!''; ''Trần Tiến lên đi, không có anh hùng Núp đâu!'' ''Này, hết bao nhiêu đấy, để còn Campuchia?''; ''Từ đây đến đấy còn Natasa không mày?''; ''Thôi, tôi Lương Văn Can ông, đừng đến đấy!''; ''Hôm nay trông hơi nhà vệ sinh đấy!''; ''Lát nữa có đê tiện đi siêu thị, nhớ mua hộ chai nước mắm nhé!''. “Bố mua đồ chơi hoành tá tràng (hoành tráng) quá!” ; “Bạn A. trình còi, đạp xe đạp không bằng con đâu mẹ ạ!”.v.v.
Thậm chí những sáng tạo này, còn được các phương tiện truyền thông “tiếp sức” khi sáng tạo ra những kết hợp kiểu biến danh từ thành tính từ chưa có trong từ điển: ''một cảm giác rất yomost'', ''một phong cách thật xì-tin''. Bên cạnh đó những cách diễn đạt đã ăn sâu đến mức là câu “cửa miệng” của không nhỏ bộ phận giới trẻ: từ “vãi” +… kiểu như: mệt vãi chưởng, buồn ngủ vãi, xinh vãi.v.v.
Chữ viết vốn là một công cụ để ghi lại ngôn ngữ, vì thế những biểu hiện lệch lạc trong ngôn ngữ nói lâu dần sẽ được phản ánh trong ngôn ngữ viết. Với những thực tế như trên hẳn sẽ không còn là điều ngạc nhiên khi mới đây một học sinh lớp 10 trong lá đơn xin nghỉ học của mình đã trình bày “rất thật” những lỗi chính tả khiến nhiều người cho là “ngoài sức tưởng tượng’.
Theo Thầy Nguyễn Mạnh Hiếu, giảng viên khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết trong số gần 1.000 bài thi mà thầy đã chấm (Kỳ thi tuyển sinh đại học 2006) có hơn 2/3 bài làm chữ viết tệ hơn cả HS tiểu học, phần đông sai chính tả đến không thể chấp nhận. Tình trạng thí sinh viết văn như nói, viết mà chẳng biết viết gì vẫn diễn ra phổ biến. Trong lần chấm chung (cả tổ) môn văn, một giảng viên phải vất vả lắm mới đọc được nội dung, nhưng tìm mỏi mắt vẫn không thấy một dấu câu nào trong bài làm dài bốn trang của một TS dự thi khối D [6]. Đến đây, chắc chắn chúng ta không còn khó tưởng tượng bởi điều đó xuất phát từ một thực tế có căn nguyên rõ ràng và hệ lụy như trên là không thể tránh khỏi.
Trên đây chúng tôi trình bày tóm lược những biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ của giới trẻ ở cả hai môi trường thực - ảo. Những kết quả khảo sát đã phần nào cho thấy thực trạng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Bên cạnh những nét độc đáo, những sáng tạo đáng ghi nhận vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần có sự can thiệp, chấn chỉnh kịp thời để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Như trên, chúng tôi đã chỉ ra những nguyên nhân của vấn đề khi nói về thực trạng của nó. Trong số đó, chúng ta thấy không chỉ tồn tại những nguyên nhân chủ quan mà còn chứa đựng những nguyên nhân khách quan; thậm chí có những nguyên nhân thuộc về lịch sử phát triển của hệ thống chính tả của tiếng Việt. Vì vậy, khi đưa ra bất kỳ điều chỉnh nào cần phải tính đến xu thế phát triển của ngôn ngữ. Chúng ta cần ghi nhận những sáng tạo làm giàu, lành mạnh hóa tiếng Việt nhưng cũng cần có định hướng, biện pháp để đẩy lùi những “sáng tạo” bất hợp lý từ đó làm lành mạnh hóa hệ thống chỉnh tả, khắc phục những bất hợp lý của hệ thống chữ viết ghi âm, làm trong sáng và chuẩn hóa tiếng Việt. Ngôn ngữ vốn là một hiện tượng xã hội vì vậy những điều chỉnh dù nhỏ nhất cũng cần có sự tham gia của xã hội cộng đồng. Trên cơ sở đó chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần giảm thiểu những bất hợp lý trong ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay:
Các bạn trẻ cần tích cực tham gia trao đổi trong những môi trường tích cực như trường, lớp, đoàn hội. Trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.
Các diễn đàn (forum) cần xây dựng nội quy, quy chế rõ ràng, có cơ chế quản lý phù hợp. Hướng diễn đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo những chuẩn mực mà những thành viên tiêu biểu tạo ra.
Gia đình cần sự quan tâm chia sẻ từ các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay, và đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất. Giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc giao lưu học hỏi, cũng như trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình.
Thầy cô - những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh.
Nhà trường cần định hướng cho các em những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt từ đó nâng cáo ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó.
Cơ quan chủ quản cần xây dựng một chương trình học tiếng Việt phù hợp trên tinh thần giảm tải những kiến thức về ngôn ngữ học tiếng Việt, coi trọng kỹ năng giao tiếp(bao gồm cả nói và viết tiếng Việt; yếu tố thẩm mĩ, văn hóa trong giao tiếp tiếng Việt…).
Các cơ quan thông tin truyền thông cần xây dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội. Cần có thái độ cầu thị kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn, những xu hướng không phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt. Từ đó, giúp giới trẻ có được định hướng đúng đắn.
Nhìn lại chặng đường phát triển của Tiếng Việt từ thủa dựng nước, giữ nước đến nay, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, với không ít mưu đồ đồng hóa nhưng Tiếng Việt không những không bị đồng hóa mà còn phát triển ngày càng hoàn thiện đảm đương tốt vài trò là ngôn ngữ văn hóa dân tộc, chúng ta thấy được sức sống mạnh mẽ của một ngôn ngữ đã là niềm tự hào của biết bao thế hệ - ngôn ngữ ấy không dễ dàng để mất đi bản sắc của mình. Bởi thực tế ngôn ngữ có quy luật phát triển của riêng nó. Việc tiếp thu những cái mới và xóa bỏ, loại trừ những yếu tố không phù hợp luôn là hai phép cộng và trừ gắn liên với quy luật phát triển của mỗi ngôn ngữ. Một cá nhân không thể thay đổi được ngôn ngữ nhưng cộng đồng, xã hội đó có thể định hướng cho ngôn ngữ đó phát triển như thế nào. Điều đó, không nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Một quốc gia có chính sách ngôn ngữ tốt sẽ giúp cho ngôn ngữ của quốc gia đó lớn mạnh[28:2] và vì vậy, khi nói đến ngôn ngữ của một “tầng” “lớp” nào đó trong xã hội, nó sẽ không nằm ngoài xu hướng chung của ngôn ngữ xã hội đó. Vì thế, cần có một lỗ lực chung của cả cộng đồng ngôn ngữ không riêng gì nhà trường, gia đình, hay bản thân thế hệ trẻ.
Mở bài:
Thời gian gần đây, dư luận quan tâm nhiều đến tình hình phát triển của tiếng Việt trong cơ chế thị trường thời mở cửa. Trước sự phát triển năng động của cuộc sống, tiếng Việt buộc phải mở rộng. Việc phát triển vốn từ vựng theo nhiều hướng khác nhau. Tiếng Việt có thể vay mượn, hoặc tổ chức lại những yếu tố đã có để tạo ra từ mới. Hoặc tự sáng tạo ra từ ngữ có nghĩa mới.
Không thể phủ nhận sự đóng góp thiết thực về ngôn ngữ của giới trẻ. Song, nó cũng gây ra những hệ lụy to lớn đối với vấn đề giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trong thời đại ngày nay. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và mạng Internet, ngôn ngữ “chát” cũng đã ra đời trong giao tiếp của giới trẻ. Ngôn ngữ này, ngày càng phát triển và có những tác động lớn đến tiếng Việt.
Thân bài:
Phát triển hệ thống từ ngữ mới là xu thế tất yếu của thời đại.
Sự gia tăng vốn từ vựng tiếng Việt có mặt tích cực đáng kể. Trước hết nó đã đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu giao tiếp hiện nay. Nhất là trong các lĩnh vực hoạt động kinh, xã hội, nghiên cứu khoa học và điều hành xã hội nói chung. Đồng thời, nó làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn.
Cũng không thể phủ nhận rằng, có nhiều từ ngữ mới có yếu tố sáng tạo, chuẩn xác, tinh tế, làm cho tiếng Việt thêm đẹp. Sự phát triển ngôn ngữ trong thời đại mới giúp cho vấn đề giao tiếp trở nên thuận lợi và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, có một lớp từ ngữ mới của thời đại công nghệ thông tin ra đời không dựa trên nguyên tắc cấu thành ngôn ngữ. Nó được sử nhiều trong giới trẻ hiện nay làm mất đi sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt.
Ngôn ngữ “chát” là gì?
Ngôn ngữ “chat” là loại ngôn ngữ mà giới trẻ sáng tạo ra khi tham gia vào mạng xã hội). Ngôn ngữ “chat” phát triển theo trào lưu mạng xã hội đang bùng nổ. Xu hướng này ngày càng lan rộng khi lượng người sử dụng internet và điện thoại di động ngày càng tăng. Đây là loại ngôn ngữ được sáng tạo, biến đổi liên tục và xâm nhập vào cả đời sống xã hội.
Nhưng dù xuất hiện với lí do gì đi nữa, ngôn ngữ “chat” cũng gây ra nhiều cuộc tranh cãi ngay từ lúc ra đời. Đây là điều mà chưa loại ngôn ngữ nào trước đó làm được. Tất cả các cuộc tranh cãi đó đều xoay quanh tính tích cực và tiêu cực của ngôn ngữ chat đối với tiếng Việt truyền thống và xã hội.
Thực trạng của việc sử dụng ngôn ngữ tùy tiện của giới trẻ hiện nay:
Sự sáng tạo chính là động lực phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cái mới lạ không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với cái tích cực, cái hay. Bên cạnh yếu tố tích cực, sự tăng trưởng “nóng” của từ vựng tiếng Việt trong thời gian gần đây cũng thể hiện không ít các yếu tố tiêu cực. Hiện trạng đó dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng về vốn từ của tiếng Việt.
Ở Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây nền kinh tế có những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, truyền thông có nhiều thành tựu lớn. Xu thế hội nhập đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược đều có sự thay đổi lớn. Giới trẻ luôn là đối tượng có sự bắt nhịp nhanh nhất với những thay đổi này. Cùng với tâm lý lứa tuổi, giới trẻ đã tạo cho mình những thay đổi. Những thay đổi lớn đến mức người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên riêng. Chẳng hạn như thế hệ “8X”, “9X”, “công dân thời @” hay “tuổi teen”.
Ngôn ngữ “lai căng” được cấu thành không dựa trên một nguyên tắc khoa học nào. Tất cả được tự tạo ngẫu hứng và tự phát. Ngôn ngữ ấy đang được sử dụng trên phổ biến các trang điện tử hiện nay. Nó hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ tùy tiện trong các bạn trẻ. Tiếng Việt hiện đang có sự lai căng, nhí nhố, đánh mất đi trí tuệ, linh hồn và bản sắc dân tộc Việt.
Lướt qua một vài trang mạng xã hội ta dễ bắt gặp những cách trình bày khác lạ của các bạn trẻ. Ta cũng dễ dàng nhận ra quy luật của kiểu ngôn ngữ này.
Trước hết là sự đơn giản hóa ngôn từ giao tiếp: “yêu” viết thành “iu”, “biết” viết thành “bít”, ,…
Kiểu viết tắt tùy tiện, cẩu thả cũng là một xu thế hiện nay: “không” viết thành “ko”, “với” viết thành “vs”, “cũng” viết thành “cg”, “quá” viết thành “wá”, “scd” (sao cũng được), “ko hc dì” (không học gì)
Kiểu biến âm theo lối đơn giản hóa từ ngữ: “hỏng biết” viết thành “hẻm biết”, “biết chết liền” viết thành “bít chết liền”, “tình yêu” viết thành “tềnh iu”, ..
Kiểu biến nghĩa vụng về, dung tục: “cùng nhau đi trốn”, “cùi bắp”, “tin vịt”, “báo lá cải”, “chạy mất dép”, “đá đít”, “bốc hơi”, “bó tay.com”,….
Kiểu thành ngữ tối nghĩa: “nhỏ như con thỏ”, “đau khổ như con hổ”, “chán như con gián”, “láo như con cáo”,….
Kiểu chơi chữ Tây-ta: “G92U” là “chúc buổi tối”, “4U” là “cho bạn”, “2” là “chào”, “k” là “nghìn”,…
Từ một vài trường hợp đơn lẻ, ngôn ngữ chát đã gây nên một làn sóng mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng trong giới trẻ.
Hậu quả của việc sử dụng ngôn ngữ “chát” trong giao tiếp hằng ngày:
Trước hết, loại ngôn ngữ này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời có tác đông sâu sắc đến văn hóa giao tiếp trong xã hội. Những từ ngữ chuẩn mực với đầy đủ hàm nghĩa và sự biểu đạt của nó không còn được sử dụng. Thay vào đó là lớp ngôn ngữ lai căng, cẩu thả, tối nghĩa, dung tục lại được phổ biến. Điều đó rất nguy hại, có thể làm biến dạng ngôn ngữ và nền văn hóa dân tộc.
Lệch lạc trong ngôn ngữ là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa về nhân cách. Không những thế nó còn gây nên lối sống buông thả, không còn tôn trọng pháp luật. Sự lệch chuẩn của ngôn ngữ giao tiếp làm nảy sinh những suy nghĩ sai lầm. Từ đó dẫn đến các hành vi phạm tội trong giới trẻ.
Lệch lạc, thiếu chuẩn mực trong giao tiếp là nguyên nhân gây ra mâu tuẫn, xung đột. Nhiều vụ ẩu đả dẫn đến án mạng cũng chỉ bởi vì “lời nói khó nghe” hoặc “khó hiểu” hoặc nhìn “thấy ghét” của các thanh niên.
Giao tiếp kém tế nhị khiến cho con người xấu xí hơn trong mắt người khác. Người có lời nói thô tục, thiếu chân thực thường không được mọi người yêu thương, hợp tác hay giúp đỡ. Họ còn bị xa lánh, bị xua đuổi trong cộng đồng.
Từ việc lệch lạc trong ngôn ngữ, thái độ sống của con người cũng lệch lạc theo đó. Họ thường tỏ vẻ ta đây, khó chịu với người khác. Họ thường ghét nhưng gì thuộc về cái đẹp, cái chuẩn mực. Họ thương kết giao với những người thấp kém, tầm thường. Sớm muộn gì họ cũng tự rơi vào hố sâu của các tệ nạn xã hội mà thôi.
Nguyên nhân làm nảy sinh hiện tượng ngôn ngữ “chát”:
Việc đơn giản hóa không phải không có nguyên nhân chủ quan khách quan của nó. Đây cũng không phải xu hướng phát triển mới lạ bây giờ mới xuất hiện. Đó là một thực tế, một quy luật có tính phổ biến trong sự phát triển của ngôn ngữ. Quy luật này không ai có thể phá vỡ nổi. Cũng không có đạo luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được. Cho dù ghét nó người ta cũng vẫn phải nhượng bộ.
Việc hình thành các mạng xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ tự xây dựng một thế giới riêng mình. Họ được thỏa sức làm điều họ muốn trong một thế giới ảo. Trong thế giới đó, nhiều chuẩn mực, lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn nữa. Vì thế, những phong cách “thời thượng” và cá tính “chính hiệu” đã ra đời.
Cùng với đó là sự lạm dụng các yếu tố ngoại ngữ, khẩu ngữ, cách diễn đạt để gây “ấn tượng”, “giật gân”. Thậm chí những sáng tạo này còn được các phương tiện truyền thông “tiếp sức” mạnh mẽ. Nhiều nhà quảng cáo đã sáng tạo ra những kết hợp kiểu biến danh từ thành tính từ chưa có trong từ điển. Điển hình như: ”một cảm giác thật là yomost”, ‘‘một phong cách thật xì-tin”, “sạch hơn cả siêu sạch”,…
Sự giảm sút tình yêu tiếng Việt hiện nay là đáng lo ngại. Ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của một bộ phận nhân dân đang xuống cấp. Xu hướng lai căng, vọng ngoại đang sôi nổi. Một số bạn trẻ thích “hiện đại”, thích “thể hiện cá tính, đẳng cấp” khoa trương một cách quá đáng.
Một số doanh nghiệp nắm bắt tâm lý sính ngoại của người dân nên triệt để khai thác. Từ tên thương hiệu, vỏ bao bì, cách quảng cáo… đến việc ăn theo những từ mới. Một số người thường thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt pha trộn nhiều tiếng nước ngoài. Hay cách diễn đạt cầu kì, khó hiểu. Hoặc dùng các từ nước ngoài một cách không cần thiết…
Giới trẻ hiện nay thiếu hụt tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho con người thiếu quan tâm đến ngôn ngữ giao tiếp. Họ thích nói ngắn gọn. Họ ngại dùng từ hán Việt. Từ đó dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt cả về từ ngữ lẫn ngữ pháp. Một thực trạng dễ thấy là lời nói của giới trẻ ngày càng khô khan do vốn từ nghèo nàn.
Việc sáng tạo ngôn ngữ không dựa trên các nguyên tắc khoa học và hoàn cảnh giao tiếp khiến cho ngôn ngữ tuổi “teen” rắc rối, khó hiểu, hoặc vô nghĩa.
Sự thiếu tích cực và“chậm chân” của công tác nghiên cứu, phản biện về ngôn ngữ của các chuyên gia trước thực trạng xã hội khiến cho hiện tượng này leo thang. Chữ viết vốn là một công cụ để ghi lại ngôn ngữ. Vì thế những biểu hiện lệch lạc trong ngôn ngữ nói lâu dần sẽ được phản ánh trong ngôn ngữ viết. Với những thực tế như trên hẳn sẽ không còn là điều ngạc nhiên nữa.
Bên cạnh những nét độc đáo, những sáng tạo đáng ghi nhận vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần có sự can thiệp, chấn chỉnh kịp thời để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Giải pháp khắc phục việc sử dụng ngôn ngữ “chat” không đúng mục đích giao tiếp:
Ngôn ngữ vốn là một hiện tượng xã hội. Sự phát triển hay tụt lùi của ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn xã hội. Vì vậy, những điều chỉnh dù nhỏ nhất cũng cần có sự tham gia của xã hội cộng đồng. Một xu hướng xấu có thể nảy sinh trong vòng vài năm. Nhưng phải mất rất nhiều năm để chấn chỉnh, điều hướng và khắc phục hậu quả của nó.
Các bạn trẻ cần tích cực tham gia trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc. Không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.
Các diễn đàn (foroom) và các trang mạng xã hội cần xây dựng quy chế rõ ràng và phù hợp. Hướng diễn đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo. Một biểu tuượng đẹp trong ngôn ngữ rất dễ thu hút người xem làm theo.
Gia đình cần sự quan tâm chia sẻ từ các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay. Từ đó, đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất. Hãy giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc giao lưu học hỏi lẫn nhau nhiều hơn. Đồng thời, trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình.
Thầy cô là những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ. Thầy cô chính là những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình. Bởi vậy, mỗi thầy cô cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. Đặc biệt, là xây dựng cho mình một ngôn phong trong sáng, chuẩn mực.
Nhà trường cần định hướng cho các em những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt. Từ đó, nâng cáo ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó.
Cơ quan chức năng cần xây dựng một chương trình học tiếng Việt phù hợp và khoa học. Trên tinh thần giảm tải những kiến thức về ngôn ngữ học tiếng Việt. Coi trọng kỹ năng giao tiếp và phát triễn kỹ năng sống cho học sinh.
Các cơ quan thông tin truyền thông cần xây dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội. Cần có thái độ kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn. Kìm chế hững xu hướng không phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt. Từ đó, giúp giới trẻ có được định hướng đúng đắn.
Bài học:
Luôn rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp. Luôn vận dụng đúng đắn các phương tiện giao tiếp để bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Khi nhân cách chưa định hình thì cần phải rèn luyện bản thân theo những chuẩn mực tốt đẹp hơn nữa. Tránh lệch lạc nhân cách dẫn đến các hành vi sai trái.
Góp ý, điều chỉnh những hành vi lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của bạn bè. Vận dụng ngôn ngữ mới nhưng không lạm dụng nếu Tiếng Việt có từ tương tự. Rèn luyện ý thức trân trọng và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt.
Kết bài:
Như vậy, vấn đề văn hóa ngôn ngữ và giáo dục văn hóa ngôn ngữ cho thế hệ trẻ nhất là cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Trong đó, bản thân giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại.