.chia làm 3 phần
Phần 1(sự thách thức):thực trạng c/s khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên thế giới-những thách thức đặt ra cho các nhà lãnh đạo chính trị
Phần 2(cơ hội):những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển c/s đảm bảo tương lai cho trẻ em.
Phần 3( nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể cấp thiếy cần thực hiện nhằm bảo vệ và cải thiện đời sống vì tương lai trẻ em.
→đây là một kết cấu khá chặt chẽ và hợp lí. tác giả bắt đầu = những vấn đề thực tiễn ai cũng nhận thức thấy.phần tiếp theo t/g nêu ra những cơ hội những điều kiện thực tế để các nhà lãnh đạo có thể vận dụng trong các hoạt động nhằm cải thiện c/s của trẻ em.phần cuối là hàng loạt những nhiệm vụ cần thiết.cách trình bày từ thực tế đến tư duy, từ dễ đến khó nhận biết, từ quan điểm cá nhân đến quan điểm cộng đồng...có tác động tích cực đến người đọc người nghe.
- Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em gồm 17 mục, ngoài phần tuyên bố về mục đích tham dự hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em và nhận thức về nhu cầu, quyền được chăm sóc, phát triển của trẻ em, văn bản được bố cục thành ba phần
: + Phần 1 (Sự thách thức): Phân tích thực trạng cuộc sống của trẻ cm trên thế giới (trẻ em trước hiểm hoạ chiến tranh và bạo lực; trẻ em trong thảm hoạ đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh, ma tuý,...). Đây là những thách thức đặt ra cho các nhà chính trị.
+ Phần 2 (Cơ hội): Chỉ ra những điều kiện thuận lợi của bối cảnh quốc tế trong việc thúc đẩy việc chăm sóc, bảo vệ quyền trẻ em. Điều kiện để bảo đảm một tương lai tốt đẹp cho trẻ em.
+ Phần 3 (Nhiệm vụ): Xác định những nhiệm vụ cụ thể cần phải thực hiện của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế vì sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em.
- Ba phần của văn bản này có quan hộ chặt chẽ với nhau. Hai phần trước là cơ sở, căn cứ để rút ra những nội dung ở phần sau.
Một văn bản nghị luận chứa đựng bao nhiêu tư tưởng lớn, bao nhiêu khát vọng đẹp đẽ của con người, cả ý chí dấu tranh không mệt mỏi cho mục tiêu đã định được diễn đạt khá rành mạch, rõ ràng với một kết cấu hợp lí, phù hợp với quy luật tư duy cần được đón nhận tự giác như một mệnh lệnh từ trái tim mình. Đó là kết quả bài văn đạt tới.