Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Quảng Ngãi , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 26
Số lượng câu trả lời 176
Điểm GP 36
Điểm SP 298

Người theo dõi (44)

Đang theo dõi (4)

Phùng Tuệ Minh
Nguyen

Câu trả lời:

Ở thời Lý, người ta còn nhớ Thiền sư Mãn Giác đến lúc bệnh nặng sắp qua đời vẫn có những vần thơ tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, vui sống: "Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước một nhành mai". Thời nay, có Thanh Hải, khi từng giờ từng phút chống chọi với bệnh tật, ông vẫn có những vần thơ như thế! Đó chính là bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Thi phẩm thể hiện tiếng lòng của tác giả về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và ước nguyện được sống có ích. Đặc biệt, ước nguyện ấy, lẽ sống ấy được thể hiện chân thành, sâu sắc qua những dòng thơ:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Đọc bài thơ, ta cảm nhận được những cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo của thi nhân trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên để rồi từ đó, cảm xúc được mở rộng ra với hình ảnh mùa xuân đất nước, mùa xuân cách mạng cùng những suy ngẫm, tâm niệm về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người. Đó là ước nguyện, là khát vọng cống hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, quê hương.

Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu của đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp "ta"-"hoa"-"ca". Điệp từ "ta" được điệp lại 3 lần thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Động từ "làm"-"nhập" ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá thân để sống đẹp, sống có ích. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống để bày tỏ ước nguyện: "con chim", "một cành hoa", "một nốt trầm". Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ! Còn gì vui hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời! Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho đời là lẽ thường tình. Hình ảnh "nốt trầm" và lặp lại số từ "một" tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm "một nốt trầm" nhưng phải là "một nốt trầm xao xuyến" để góp vào bản hoà ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất nước. Sự chuyển đổi đại từ nhân xưng "tôi" sang "ta" cũng có ý nghĩa sâu sắc. Đó là sự chuyển đổi từ cái "tôi" tác giả ở khổ thơ đầu mang sắc thái nhỏ nhẹ, riêng tư sang đại từ nhân xưng "ta" mang sắc thái trang trọng. Ở đây, cái "tôi" tác giả không chỉ cất tiếng nói của cá nhân mình mà còn nói lên tiếng lòng của mỗi người trong một mùa xuân mới, thể hiện sự hòa quyện, thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Nhạc điệu thơ chậm rãi, đi vào chiều sâu trầm lắng, thiết tha. Đọc đoạn thơ, ta xúc động trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người.

Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:

Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác, tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa, làm con chim, làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời. "Mùa xuân nho nhỏ" là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy "nho nhỏ", "lặng lẽ" cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường. Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến. Ý thơ thể hiện một ước nguyện, một khát vọng, một mục đích sống. Biết lặng lẽ dâng đời, biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết:

"Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình".

Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:

"Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen".

Còn bây giờ, Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế trước khi về với thế giới "người hiền" cũng đã ước nguyện:

"Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc".

Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ "dù là" nhắc lại hai lần như tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già, bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất nước. Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn!

Bài thơ được viết vào thời gian cuối đời, trước khi nhà thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong bài thơ, cũng như đoạn thơ không hề có chút băn khoăn về bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ "lặng lẽ" mà cháy bỏng một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên vào đời, mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho Cách mạng.

Đoạn thơ, bài thơ với những hình ảnh đơn sơ, gần gũi mà chứa đựng nhiều cảm xúc, nhiều nghĩ suy. Bằng thể thơ năm chữ, giọng điệu chân thành, tha thiết phù hợp với tâm trạng cảm xúc, cùng với hình ảnh ẩn dụ... Thanh Hải đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp đáng quý: mỗi người hãy sống có khát vọng, sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ bé của mình vào công cuộc bảo vệ, giữ gìn và dựng xây đất nước. Đọc đoạn thơ, bài thơ ta càng yêu hơn, trân trọng hơn lẽ sống mà Thanh Hải để lại, ta càng phải tự nhủ: Hãy sống đẹp - sống như Thanh Hải đã sống.

Câu trả lời:

Mỗi cuộc đời là một chặng đường lớn, có chỗ bằng phẳng thênh thang cũng có chỗ gập ghềnh khúc khuỷu. Người ta thường nói tuổi trẻ là phải chạy đua với thời gian, với cuộc sống và với nhịp sống ấy, dường như ta đã vô tình bỏ lỡ rất nhiều thứ, mà sau này khi ngoảnh đầu trở lại ta bỗng thật tiếc nuối và tự nhủ rằng, giá như ngày ấy chúng ta đi và nghiền ngẫm mọi thứ chứ không phải cắm đầu chạy băng băng về phía trước. Có một câu nói rất hay của Tổng giám đốc Tập đoàn Cocacola rằng: "Cuộc đời không phải là đường chạy. Nó là một lộ trình mà bạn phải thưởng thức từng chặng đường mình đi qua".

Từ lúc sinh ra cho đến lúc đã nhắm mắt xuôi tay, con người ta không biết đã phải trải qua bao nhiêu chặng đường, từ bước đi đầu tiên trong sự dìu dắt, đỡ đần của cha mẹ đến con đường lần đầu tiên tới trường, con đường lần đầu tiên ta rời khỏi quê hương đến một thành phố khác, ... Đó là những con đường ta vẫn thường đi và thường thấy, và hơn cả con đường của cuộc đời còn là những lối đi mà chúng ta phải dồn hết tâm sức, trí tuệ, sự nỗ lực và một chút cái gọi là số phận chứ không chỉ đơn giản là con đường ta bước đi bằng đôi chân. Ấy là con đường công danh sự nghiệp, con đường dẫn tới tình yêu hôn nhân, con đường đưa ta tới ước mơ, con đường đi tới hạnh phúc, con đường của quá khứ, hiện tại và tương lai,... Những con đường ấy tuy vô hình vô dạng, nhưng lại là những con đường mà chúng ta phải cố gắng và nỗ lực nhiều nhất. Bởi nó không chỉ đơn thuần là những chặng đường bằng phẳng, thông thuận để chúng ta dễ dàng vượt qua một cách nhanh chóng, có thể chạy một mạch tới vạch đích. Những chặng đường đời luôn có nhiều lắt léo, trêu ngươi, người ta vẫn chia ra thành những "lộ trình" khác nhau, có đoạn vui, đoạn buồn, có đoạn đầy nước mắt thương đau, lại có đoạn tràn ngập hạnh phúc tiếng cười, có những đoạn ta phải cắn răng buông tay những người, những cái từng rất quan trọng với chúng ta, có đoạn thấm đẫm máu và mồ hôi.

Câu nói "Cuộc đời không phải là đường chạy. Nó là một lộ trình mà bạn phải thưởng thức từng chặng đường mình đi qua" là một câu nói thật hay và ý nghĩa. Nó dạy cho mỗi con người hiểu được cách bước trên đường đời sao cho thật đúng và không uổng phí thời gian mà tạo hóa đã ban cho chúng ta. Vẫn biết rằng chúng ta sẽ phải chạy đua với cuộc sống, để tồn tại, để thành công, để giành lấy hạnh phúc cho bản thân, nhưng việc "chạy đua" ở đây được hiểu là sự nỗ lực, cố gắng của bạn trong cuộc sống, chứ không phải chạy đua là cố bước thật nhanh, bỏ qua hết tất thảy những lộ trình của cuộc đời, chọn "lối tắt", chỉ mong muốn hưởng những lộ trình đẹp đẽ mà không hề biết đến những khổ cực trong đường đời. Người muốn đi nhanh, đi tắt mà quên mất nền tảng, chỉ biết phần ngọn mà không hiểu phần gốc thì cũng khó có thể thành công trong cuộc sống. Thêm nữa, có nhưng người cứ để cuộc sống trôi qua một cách vô nghĩa bằng cách chìm đắm trong mộng mị của những chặng đường đã qua, hoặc có người lại cứ mơ ước về một thứ gì đó xa xôi mà không chịu nhìn vào thực tại, sống cho thực tại, nỗ lực cho thực tại, đó thực sự là một lối sống sai lầm.

Cuộc đời chỉ có một lần duy nhất, Xuân Diệu đã từng than thở rằng: "Nếu cuộc đời chẳng hai lần thắm lại/Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn", đó là một nhận thức rất thực tế của nhà thơ về đời người, chúng ta chỉ được sống một lần, không quan tâm kiếp này hay kiếp trước, vậy cớ sao chúng ta không cố gắng sống thật trọn vẹn, con người có thất tình lục dục, thiếu một thì thành ra khiếm khuyết, bởi vậy đừng né tránh điều chi mà hãy bình thản đón nhận. "Trời sinh voi, sinh cỏ", chúng ta sẽ sống thật tốt, thật hạnh phúc nếu chúng ta biết trân trọng và thưởng thức tất cả những buồn vui của cuộc sống, ông trời vốn đã có an bài. Chúng ta đừng vì sợ khổ cực, vì sợ thất bại mà bỏ qua việc thử sức một công việc mới, cũng đừng sợ đổ vỡ trong tình yêu mà không dám mở lòng đón nhận ai đó, cũng đừng vì sợ cô đơn mà chọn đại lấy một người chung sống cả đời. Tất cả những điều đó điều là sự vô trách nhiệm với bản thân, không dám đương đầu với cuộc sống, là sự hèn nhát ngu muội, cuộc đời mà, muốn có được trái ngọt hạnh phúc thì phải khổ sở trồng cây chứ, phải biết được, nỗi vất vả chăm bón, tưới nước thì quả ngọt thu được mới thật sự có ý nghĩa. Cuộc đời cũng vậy, đẹp hay không là do chúng ta nhìn nhận và lựa chọn, người lười biếng, viển vông thì thấy cuộc đời một màu xám xịt, còn người siêng năng, biết trân trọng từng chặng đường đời thì thấy cuộc sống muôn màu muôn vẻ và thật có ý nghĩa, sống chẳng uổng phí thanh xuân.
Vậy nên các bạn trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, các bạn vừa xuất phát, vừa bước chặng đường của mình chưa được bao nhiêu lâu, các bạn đừng cố chạy thật nhanh trên đường đời làm gì, không ai cho bạn giải quán quân của cuộc đua ấy đâu. Hãy sống vì bản thân, hãy trân trọng từng chặng đường mà bạn đã trải qua, để khi nhắc về nó bạn sẽ không phải nuối tiếc, thay vào đó là nụ cười hạnh phúc và mãn nguyện, có thế cuộc đời của chúng ta mới được trọn vẹn và không uổng phí.

Câu trả lời:

Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.

Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.

Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quán khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao...

Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...

Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.

Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.

Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngã. Là một người phục nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.

Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.

Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.

Bài 2 đây =))