Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Gia Lai , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 0
Số lượng câu trả lời 19
Điểm GP 2
Điểm SP 10

Người theo dõi (0)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Mục tiêu, lý tưởng của Đảng và Quân đội luôn thống nhất chặt chẽ QNP - Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam là vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Mục tiêu, lý tưởng ấy do Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh giáo dục, xây dựng cho Quân đội ta; từ đó tạo nên sự thống nhất chặt chẽ không thể tách rời giữa mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo QĐND Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là để quân đội có bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Sự trung thành vô hạn của quân đội ta đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân được thể hiện rất rõ nét ở lòng trung thành, luôn sẵn sàng, tự nguyện chiến đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng cao cả đó. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nhận thức sâu sắc rằng, chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng của quân đội cũng chính là chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân đã thể hiện khát vọng của toàn dân và khát vọng của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội. Sâu xa hơn, đó còn là sự thể hiện sự trung thành của Đảng với con đường cách mạng vô sản-con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta đã chứng tỏ, sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quân đội ta, mà trước hết ở việc quán triệt, xây dựng mục tiêu lý tưởng chiến đấu cho quân đội đã góp phần tạo lập nên bản lĩnh vững vàng, kiên định và động lực to lớn cổ vũ cán bộ, chiến sĩ toàn quân nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết một lòng, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Phẩm chất cao đẹp nhất của Quân đội ta là trung với Đảng, hiếu với dân đã trở thành nét truyền thống vẻ vang, cũng được hình thành, phát triển bền vững từ sự giác ngộ sâu sắc và trung thành với mục tiêu lý tưởng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và ngày càng hoàn thiện đường lối đổi mới trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng được biểu hiện rất phong phú đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhưng trước hết là tin tưởng và quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng, ra sức cống hiến, đấu tranh bảo vệ Đảng, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó cũng chính là nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và Biển Đông có những diễn biến phức tạp, khó lường, cùng sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta, càng đòi hỏi cao ở quân đội lòng trung thành, kiên định với mục tiêu lý tưởng chiến đấu, tự giác và tuyệt đối chấp hành sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Hơn lúc nào hết, cán bộ đảng viên, chiến sĩ quân đội phải nâng cao nhận thức và nỗ lực cao nhất để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình; coi đó là biểu hiện tập trung của lòng trung thành với Đảng, của đức hiếu với dân; kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện phai nhạt, xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu, mơ hồ về chính trị. Nhân tố 22/9/2019 Mục tiêu, lý tưởng của Đảng và Quân đội luôn thống nhất chặt chẽ

chủ yếu quyết định tăng cường sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng của Đảng với mục tiêu, lý tưởng của Quân đội ta, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Cùng với đó phải ra sức củng cố tăng cường trận địa tư tưởng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải đặc biệt coi trọng giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ thấy rõ sự thống nhất nội tại vốn có giữa mục tiêu, lý tưởng của Đảng với mục tiêu, lý tưởng của quân đội; luôn có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữa lòng trung thành của quân đội với Đảng và lòng trung thành của quân đội với nhân dân. Đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng trong quân đội là lực lượng có vai trò quyết định trong việc củng cố, tăng cường sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng và của Quân đội, cần phải tỏ rõ sự trung thành, kiên định mục tiêu lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân bằng những hành động thực tế với chất lượng, hiệu quả cao trong công tác theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng cũng phải được chú trọng thường xuyên, với phương pháp, hình thức giáo dục phù hợp, thiết thực, cụ thể. Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và lòng trung thành của quân đội đối với Đảng là hai mặt không tách rời, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác–Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng của Đảng với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Trước tình hình và yêu cầu nhiệm vụ mới hiện nay, đòi hỏi phải vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng, khoa học, cách mạng, trong đó có phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là việc làm hết sức cần thiết để nhận thức và giải quyết tốt các vấn đề đang đặt ra. Một trong những cái “bất biến” mà quân đội phải nắm vững là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, để quân đội tự giác lấy đó làm mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Mọi nhận thức, suy nghĩ và hành động thực tiễn của cán bộ, chiến sĩ đều nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao cả, mang tính nhân văn sâu sắc mà Đảng đã xây dựng cho quân đội. Đó là biểu hiện của lòng trung thành với Đảng và cũng là biểu hiện chấp hành sự lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với Quân đội ta. Hơn lúc nào hết, toàn quân cần nâng cao cảnh giác cách mạng, tăng cường đấu tranh bảo vệ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đấu tranh phòng chống hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, phản động.

Câu trả lời:

Tình bạn của Mác và Ăng ghen là một tình bạn rất cảm động và vĩ đại.
Khi nói đến tình bạn của Mác và Enghen, Lê nin đã viết rằng, họ là những người " có một tâm hồn biết yêu thương nhau sâu sắc "
Những tâm hồn biết thương yêu. Có lẽ ta chẳng bao giở hiểu được thật sự những gì chứa đựng bên trong mấy chữ ngắn ngủi ấy , nếu không có thư từ của 2 ông. Khi được tin F . Enghen báo là mình bị ốm , Mác không phải chỉ lo lắng băn khoăn , mà gần như phải hốt hoảng lên . Mác yêu cầu bạn báo cho ông biết những triệu chứng của căn bệnh và lời kết luận của bác sĩ . Ít lâu sau ông tìm đến những bác sĩ nổi tiếng ở Luân - Đôn . Ông kể lại tất cả những gì mình biết bề bệnh tình của F . Enghen . Ý kiến của bác sĩ kô làm ông thoả mãn . Suốt trong mấy ngày liền Mác hỏi muợn thư viện các tác phẩm y học mới nhất , cả những cẩm nang của bác sĩ bằng các tiếng Pháp , Anh và Đức . Cuối cùng ông xác định được phương thuốc hay nhất theo ý mình .... để chữa cho F . Enghen và ông viết thư cho bạn biết.
Đến lược Mác ốm Enghen cũng lo lắng không kém Mác truớc kia ông đi tới các bác sĩ nổi tiếng nhất ở Mansétxtơ để hỏi bệnh . Ông gửi các đơn thuốc xin được về Luân Đôn và yêu cầu Mác phải đến Mansétxtơ để nghĩ ngơi , thuyết phục Mác nên nghiêm chỉnh nghĩ đến sức khỏe của mình F . Enghen rất lo lắng .Ai mà chẳng thấy vui trước sự bình yên và niềm vui của bạn , ai mà chẳng thấy buồn trước đôi mắt rầu rĩ và tuyệt vọng của bạn .
Nhiều chuyện cổ tích truyền tụng những tấm gương cảm động về tình bạn . Giai cấp vô sản châu âu có thể nói rằng : Khoa học của họ đã do 2 nhà bác học , 2 chiến sĩ sáng tạo ra , đó là 2 con người có quan hệ đối xử với nhau vượt xa mọi chuyện cổ tích cảm động nhất về tình bạn của con người

Câu trả lời:

Đặc điểm nổi bật của phong trào dân tộc dân chủ (1919-1930) là cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo giữa khuynh hướng cách mạng vô sản và dân chủ tư sản.

1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản

a. Hoạt động yêu nước của tư sản và tiểu tư sản từ năm 1919 đến năm 1925

Hoạt động của tiểu tư sản

+ Năm 1923, một số thanh niên yêu nước hoạt động ở Quảng Châu – Trung Quốc, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,… lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Năm 1924, Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát Toàn quyền Đông Dương Méc-lanh ở Sa Diện (Quảng Châu), tuy không thành công, nhưng đã khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên yêu nước.

+ Tầng lớp tiểu tư sản trí thức sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ; thành lập một số tổ chức chính trị (như Phục Việt, Hưng Nam, Việt Nam nghĩa đoàn, Thanh niên cao vọng), xuất bản nhiều tờ báo tiến bộ (bằng tiếng Pháp có: An Nam Trẻ, Người nhà quê, Chuông rè, báo bằng tiết Việt: Hữu Thanh, Đông Pháp thời báo…). Một số nhà xuất bản như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sải Gòn), Quan hải tùng thư (Huế)… đã phát hành nhiều sách tiến bộ.

+ Một số phong trào đấu tranh chính trị như cuộc đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đì thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926).

Hoạt động của tư sản:

+ Từ năm 1919, tư sản Việt Nam tổ chức tẩy chay hàng Hoa Kiều, vận động “chấn hưng nội hóa”, “bài trừ ngoại hóa”.

+ Năm 1923, một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và xuất cảng lúa gạo ở Nam Kì.

+ Năm 1923, một số tư sản và đại địa chủ ở Nam Kì thành lập Đảng Lập hiến, đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, nhằm tranh thủ quần chúng.

Ngoài ra còn có nhóm Nam phong và nhóm Trung Bắc tân văn hoạt động ở Bắc Kì, mở các cuộc vận động đòi tự do đi lại, tự do ngôn luận, tư do buôn bán. b. Việt Nam Quốc dân đảng (1927-1930)

Trên cơ sở hạt nhân là nhà xuất bản Nam Đồng tư xã, ngày 25/12/1927, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, PHạm Tuấn Tài thành lập Việt Nam Quốc dân đảng. Đây là tổ chức đại diện cho tư sản dân tộc theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản.

Hoạt động:

+ Tháng 2/1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức ám sát trùm mộ phu Ba danh ở Hà Nội. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố, lực lượng của Đảng và quần chúng bị tổn thất nặng nề. Trước tình thế đó, những cán bộ lãnh đạo quyết định thực hiện cuộc bạo động cuối cùng với ý tưởng “không thành công cũng thành nhân”.

+ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra ngày 9/2/1930, trung tâm là thị xã Yên Bái, ở một số nơi có những hoạt động phối hợp như Phú Thọ, Sơn Tây, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội…, nhưng cuối cùng bị quân Pháp phản công và dập tắt.

+ Cuộc khởi nghỉa Yên Bái thất bại kéo theo sự tan rã hoàn tòn của Việt Nam quốc dân đảng, chấm dứt vai trò lịch sử của giai cấp tư sản Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc

Việt Nam và sự thất bại của khuynh hướng cứu nước dân chủ tư sản tại Việt Nam.

2. Phong trào theo khuynh hướng vô sản

a. Phong trào công nhân

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lần khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ngày càng tăng về số lượng. Dưới ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản, phong trào công nhân ngày càng phát triển theo phương hướng từ tự phát đến tự giác.

Từ năm 1919 đến năm 1925: Đã nổ ra 25 cuộc đấu tranh, tiêu biểu:

+ Năm 1922, có các cuộc bãi công của công nhân và viên chức các cơ sở công thương tư nhân ở Bắc Kì và công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn – Chợ Lớn.

+ Năm 1924 có các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương.

+ Tháng 8/1925, thợ máy xưởng Ba Sơn tại cảng Sài Gòn bãi công, không chịu sửa chữa chiến hạm Misole của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Lần đầu tiên trong cuộc đấu tranh này đã xuất hiện ý thức giai cấp, ý thức chính trị và tinh thần đoàn kết quốc tế.

+ Về tổ chức, năm 1920, có tổ chức Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng sáng lập ở Sài Gòn.

Từ năm 1926 đến năm 1929:

+ Tháng 6/1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập. Thông qua những hoạt động của tổ chức này, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh.

+ Năm 1928, sau khi có chủ trương “vô sản hóa”, nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã đi vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.

+ Trong hai năm 1928-1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam, nhất là ở các trugn tâm kinh tế, chính trị.

+ Điều đáng chú ý là trong phong trào, những khẩu hiệu kinh tế được kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu chính trị; có sự liên kết của công nhân nhiều nhà máy, nhiều địa phương, nhiều ngành kinh tế.

=> Nhật xét:

Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng giác ngộ về chính trị, ý thức giai cấp ngày càng rõ rết, đang đi dần vào cuộc đấu tranh có tổ chức.

Phong trào công nhân đang chuyển biến mạnh mẽ từ tự phát đến tự giác, có sức quy mô. b. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.

Chuẩn bị tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam.

Viết báo, tuyên truyền lý thuận cách mạng.

c. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

Năm 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nhung ba tổ chức lại hoạt động riêng rẽ với nhau, làm cho lực lượng và sức mạn của cách mạng bị phân tán. Điều đó không có lợi cho phong trào cách mạng.

=> Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ sự thắng thế hoàn toàn của khuynh hướng cứu nước vô sản ở Việt Nam. Mặc dù trong giai đoạn 1919 – 1925, phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng vô sản và khuynh hướng dân chủ tư sản đều phát triển mạnh mẽ, nhưng ở giai đoạn sau: 1926 – 1930, khuynh hướng dân chủ tư sản ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế. Sự thất bại của Việt Nam Quốc Dân đảng đánh dấu sự thất bại của khuynh hướng dân chủ tư sản torng cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng.

tồn tai song song hai khuynh hướng cứu nước: vô sản và dân chủ tư sản

Câu trả lời:

I. Nước Mĩ từ năm 1945 đến năm 1973
1. Sự phát triển kinh tế
- Sau Chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ.
- Khoảng 20 năm sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới.
- Nguyên nhân:
+ Lãnh thổ Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ kĩ thuật cao, năng động, sáng tạo.
+ Mĩ lợi dụng chiến tranh để làm giàu, thu lợi nhuận từ buôn bán vũ khí.
+ Mĩ áp dụng thành tựu khoa học - kĩ thuật để nâng cao năng suất lao động.
+ Các tổ hợp công nghiệp - quân sự, các công ti, tập đoàn tư bản lũng đoạn Mĩ có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và có hiệu quả trong và ngoài nước.
+ Các chính sách và biện pháp điều tiết của Nhà nước đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển.

2. Về khoa học - kĩ thuật
- Là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
- Là một trong những nước đi đầu trong các lĩnh vực chế tạo công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động), vật liệu mới (pôlime, vật liệu tổng hợp); năng lượng mới (năng lượng nguyên tử, nhiệt hạch); chinh phục vũ trụ (đưa người lên Mặt trăng năm 1969), và đi đầu cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp v.v...

3. Về chính trị - xã hội
- Từ 1945 đến đầu những năm 70, nước Mĩ đã trải qua năm đời tổng thống (từ H.Truman đến R.Níchxơn), mỗi tổng thống đều đưa ra một chương trình cải cách những vấn đề xã hội.
- Mĩ thực hiện chính sách đối nội nhằm ngăn chặn, đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân và các lực lượng tiến bộ.
- Xã hội Mĩ không ổn định, nhiều mâu thuẫn xã hội nảy sinh. Cuộc đấu tranh của nhân dân Mĩ diễn ra dưới nhiều hình thức.
- Về đối ngoại, Mĩ triển khai chiến lược toàn cầu với tham vọng làm bá chủ thế giới. Mặc dù các chiến lược cụ thể mang những tên gọi khác nhau, nhưng chiến lược toàn cầu của Mĩ nhằm thực hiện ba mục tiêu chủ yếu:
+ Ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
+ Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế.
+ Khống chế, chi phối các nước tư bản đồng minh phụ thuộc vào Mĩ.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, chính sách cơ bản của Mĩ là dựa vào sức mạnh, trước hết là sức mạnh quân sự và kinh tế để khống chế các nước.

II. Nước Mĩ từ năm 1973 đến năm 1991
- Năm 1973, do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, kinh tế Mĩ lâm vào một cuộc khủng hoảng và suy thoái, kéo dài tới năm 1982.
- Từ năm 1983 trở đi, kinh tế Mĩ phục hồi và phát triển trở lại, nhưng cũng chỉ ở tốc độ trung bình so với Tây Âu và Nhật Bản. Tuy vẫn là nước đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế - tài chính, nhưng tỉ trọng của kinh tế Mĩ giảm sút nhiều so với trước.
- Với Hiệp định Pari (1973) về Việt Nam, Mĩ rút quân về nước, các chính quyền Mĩ tiếp tục triển khai “chiến lược toàn cầu”, thực hiện sự đối đầu với Liên Xô thông qua cuộc Chiến tranh lạnh.
- Từ giữa những năm 80, Mĩ - Xô thực hiện chính sách đối thoại và hoà hoãn. Đến tháng 12 - 1989, Mĩ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh, mở ra thời kì mới trên trường quốc tế.

III. Nước Mĩ từ năm 1991 đến năm 2000
- Trong suốt thập kỉ 90, kinh tế Mĩ vẫn đứng đầu thế giới.
- Khoa học - kĩ thuật của Mĩ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
- Về chính trị và đối ngoại, trong thập kỉ 90, chính quyền B.Clintơn theo đuổi ba mục tiêu cơ bản của chiến lược “Cam kết và mở rộng”. Đó là:
+ Bảo đảm an ninh của Mĩ với lực lượng quân sự mạnh, sẵn sàng chiến đấu.
+ Tăng cường khôi phục và phát triển tính năng động và sức mạnh của nền kinh tế Mĩ
+ Sử dụng khẩu hiệu “Thúc đẩy dân chủ” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
- Sau khi Chiến tranh lạnh kế thúc (1989), trật tự hai cực Ianta tan rã (1991), Mĩ tìm cách vươn lên chi phối, lãnh đạo thế giới. Tuy nhiên thế giới không bao giờ chấp nhận, vụ khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 đã chứng tỏ điều đó.