THAM KHẢO
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong thiên truyện Truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu nhất cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua thủ pháp tả cảnh ngụ tình. Sau những câu thơ viết về hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều cũng như nỗi nhớ thương Kim Trọng và thương cha mẹ già, đại thi hào đã tập trung khắc họa tâm trạng của nàng Kiều trong 8 câu thơ cuối. Cả thảy tám câu thơ đều là tả cảnh ngụ tình thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo và sợ hãi của Kiều về cuộc đời, số phận, tương lai qua cách nhìn cảnh vật.
Để khắc tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích “khóa xuân”, Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”, nghĩa là tả cảnh ngụ tình. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình chính là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm tình, tâm trạng con người. Cảnh ở đây không đơn thuần chỉ là cảnh vật bên ngoài của bức tranh thiên nhiên mà còn là cảnh trong bức tranh tâm trạng. Cảnh ở đây còn là phương tiện dùng để miêu tả, còn tâm trạng chính là mục đích mà của miêu tả. Cảnh ở tám câu thơ cuối này vẫn là tại lầu Ngưng Bích nhưng không gian là biển và thời gian là lúc chiều tà:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Cảnh “cửa bể chiều hôm” vốn đã mang trong mình nỗi buồn man mác nay lại thấm đượm tâm trạng của con người khiến cho khung cảnh ấy càng thêm khắc khoải, sầu bi. Trong khung cảnh mênh mông, quạnh vắng của cửa bể xuất hiện hình bóng của con thuyền thấp thoáng, đó là sự hiện diện duy nhất của con người giữa hoàn cảnh cô đơn, cô quạnh của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Con thuyền và cánh buồm xa xa khiến Kiều lại nhớ nhà, muốn được trở về với mái ấm gia đình, bên cha mẹ và người yêu của mình là chàng Kim. Tuy nhiên đường về nhà của nàng cũng xa vời và mịt mù như chính con thuyền thấp thoáng xa xăm ấy, có lẽ sẽ chẳng bao giờ nàng có thể trở về với cuộc sống trước kia. Cảnh ngộ ấy của kiều càng thêm xót xa khi nàng nhìn ra dòng nước:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
“Ngọn nước mới sa” cũng giống như cuộc đời nhỏ bé của Kiều đã lạc lõng giữa cuộc đời rộng lớn. Hoàn cảnh đưa đẩy khiến cuộc đời nàng sớm đã phải chịu những sóng to gió lớn của biển đời, cuộc đời và số phận nàng như bông hoa trôi man mác giữa dòng nước, chẳng thể biết được là sẽ đi được đến đâu, sẽ đi về đâu. Nàng thương cho chính kiếp hồng nhan bạc phận của mình, thân phận nàng nổi nênh vô định, hoa mỏng manh, nhỏ bé như con người và hoàn cảnh bất lực không thể phản kháng hay chạy thoát của Thúy Kiều.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Cái nhìn của Kiều không còn nhìn ra biển nữa mà nhìn về mặt đất, bầu trời, cả một không gian rộng lớn đang khỏa lấp khiến Kiều càng cảm thấy bản thân nhỏ bé, quạnh vắng. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” gợi liên tưởng đến cuộc đời tàn lụi héo úa không còn sức sống, tương lai hay một tia hy vọng nào, trời và đất thảy đều là màu xanh xanh, một màu xanh nhợt nhạt, đơn sắc, đó là lúc tâm trạng Kiều vô cùng tuyệt vọng, chán nản. Hình ảnh cuối với nhiều sóng gió, bão dữ:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Gió cuốn mạnh trên mặt vụng biển khiến cho những con sóng ào ào xô tới tới vào bờ, tiếng sóng ầm ầm dữ dằn và gằn gào như một lời đe dọa đang bủa vây lấy chiếc ghế ngồi hay chính là cuộc đời của Kiều. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cách mà Nguyễn Du mượn cảnh để nói về những dự đoán tương lai của nàng Kiều. Một cuộc đời không bình yên sóng lặng mà đầy bão giông, những cơn bão với sóng gió sẽ kéo đến vùi dập cuộc đời của nàng. Tâm trạng Kiều khi ấy chính là sợ hãi, hoang mang, tiếng sóng và gió như là dự báo về một cuộc đời đầy sóng gió, bão táp đang chờ đợi Kiều ở phía trước. Nhưng dù có được sự báo thì nàng cũng chẳng thể gắng gượng hay làm điều gì để thay đổi được hiện thực trước mặt.
Ta phải thừa nhận rằng, cảnh tượng và bức tranh thiên nhiên xung quanh lầu Ngưng Bích được nhìn qua một tấm kính đó chính là tâm trạng của Kiều: cảnh đi từ từ xa đến gần, màu sắc của cảnh được tô từ nhạt đến đậm dần, âm thanh của cảnh cũng đi từ tĩnh lặng đến dữ dội, tâm trạng của Kiều chính vì thế mà đi từ nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu và kinh sợ. Và nhờ có tám câu thơ cuối cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du ta đã có thể cảm nhận và cảm thương sâu sắc với Thúy Kiều nói riêng và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa nói chung.