Thúy Kiều báo ân báo oán- Nguyễn Du

Nội dung lý thuyết

I. Tìm hiểu chung

1. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích thuộc phần 2 “Gia biến và lưu lạc”. Mến mộ tài năng đức hạnh của Kiều, Từ Hải (người anh hùng) đã lấy Kiều sau khi chuộc nàng ra khỏi lầu xanh lần thứ 2.

- Từ Hải không chỉ đem lại cho Kiều một tấm tình tri ân, tri kỷ mà còn giúp Kiều đền ơn, trả oán, thực hiện ước mơ công lý, chính nghĩa.

2. Bố cục

Đoạn trích có thể chia làm 2 phần:

- 12 câu đầu: Kiều báo ân (trả ơn Thúc Sinh).

- Các câu còn lại: Kiều báo oán.

@91426@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Thúy Kiều báo ân

- Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm của Kiều xử án: "Cho gươm mời đến Thúc Lang". Trước những gươm lớm giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức mất cả thần sắc,"mặt như chàm đổ", người run lên, đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh.

- Qua lời của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

+ Thúc Sinh đưa nàng ra khỏi lầu xanh, giúp nàng thoát khỏi cảnh ô nhục.Cùng với chàng thúc, Kiều đã có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng gọi đó là "nghĩa nặng nghìn non". Hai chữ "người cũ" tiếng Việt mang sắc thái thân mật, gần gũi, khác với hai chữ "cố nhân" mang sắc thái trang trọng.

+ Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn thân phận một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi khổ đau của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà là do Hoạn Thư. Thúy Kiều thấu hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: "Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?". Với Kiều thì dù có "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân" cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng "nghĩa nặng nghìn non" thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được?

+ Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa, tòng, cố, nhân, tạ..., điển cố: Sâm thương. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.

- Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó cho thấy rằng vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều còn đang quá xót xa. Lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc "kẻ cắp bà già gặp nhau", "kiến bò miệng chén" với những từ tiếng Việt dễ hiểu. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn tả bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

@91427@

2. Thúy Kiều báo oán

- Hành động, lời nói của Thúy Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều "chào thưa", hai điều " tiểu thư". Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay bậc đổi ngôi là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia nhà họ Hoạn.

- Trong lời nói của Kiều có cả giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với đối tượng là Hoạn Thư, phù hợp với con người "Bề ngoài thơn thớt nói cười - Mà trong nham hiểm giết người không dao".

- Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm "Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa".

- Trước lời nói của Kiều, Hoạn Thư giây phút đầu có "hồn lạc, phách xiêu". Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn kịp "liệu điều kêu ca":

+ Trước hết Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của phụ nữ để gỡ tội: "Rằng tôi có chút phận đàn bà - Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung "chút phận đàn bà". Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai". Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.

+ Tiếp đến Hoạn Thư kể lại "công" đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.

+ Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả lỗi về mình, chỉ biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn rộng như trời biển của Kiều: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".  

+ Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời". Hoạn Thư đưa Kiều tới chỗ khó xử: "Tha ra thì cũng may đời - Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan dung độ lượng: "Đã lòng tri quá thì nên". Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha thì Kiều cũng xử theo quan điểm triết lí dân gian "Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại".

- Qua lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư "sâu sắc nước đời" đến "quỷ quái tinh ma". Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự "tự bào chữa" mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã làm ngời lên tấm lòng vị tha nhân hậu của người con gái họ Vương.

=> Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán là sự phản ánh khát vọng ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.

@91429@@91431@@91432@@91433@

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

Trong đoạn trích, Nguyễn Du đã xây dựng những đoạn đối thoại đặc sắc. Ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rất rõ những đặc điểm tâm lý, tính cách của nhân vật.

2. Nội dung

Đoạn trích là sự thể hiện ước mơ công lý, chính nghĩa theo quan điểm của nhân dân: con người bị áp bức vùng lên thực hiện ước mơ công lý của mình.

@91434@@91436@