Phú sông Bạch Đằng

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
4 coin

PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG - Trương Hán Siêu

Câu 1: Nêu hoàn cảnh ra đời của bài Phú sông Bạch Đằng?

Gợi ý:

- Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra Biển Đông, nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi ghi dấu nhiều chiến công lịch sử giữ nước của dân tộc, đây cũng là dòng sông khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả văn học.

- “Phú sông Bạch Đằng” được viết từ cảm hứng hào hùng và bi tráng. Chưa rõ bài phú được viết năm nào, có lẽ khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi.

Câu 2: Cảm nhận về hình tượng nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng.

Gợi ý:

1. Tâm hồn nhân vật khách

- Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ - khách. Khách có thể là nhân vật được hư cấu, cũng có thể chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

- Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

- Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc - Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

- Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt như: Đại Than, Đông Triều và Bạch Đằng - dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

- Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương – chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Cảm xúc của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.

- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”; thơ mộng, trữ tình “nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu”; hoang vu, hiu hắt “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

- Tâm trạng của khách:

    + Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng.

    + Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, trước những anh hùng đã lùi vào dĩ vãng.

    + Tư thế “đứng lặng giờ lâu” thể hiện tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

Khách có những phát hiện tinh tế về vẻ đẹp phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng.

→ Là con người yêu thiên nhiên, yêu lịch sử dân tộc.

3. Hình tượng nhân vật khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

- Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào tâm hồn khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

- Khách đồng tình với các bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Qua đó, bài phú thể hiện tư tưởng nhân văn của tác giả, của dân tộc Việt Nam.

4. Hình tượng nhân vật khách và những suy ngẫm về sự hưng vong của đất nước.

- Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình.

- Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử.

- Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ.

- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc.

→ Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.

- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

- Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

 

Câu 3: Cảm nhận về hình tượng các bô lão trong Phú sông Bạch Đằng.

Gợi ý:

1. Lời kể của các bô lão về những chiến thắng trên sông Bạch Đằng:

- Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự; ngôn ngữ sống động biến hóa hẳn lên. Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dạt dào như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:

“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưngnhị thánh bắt Ô Mã,

         Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

- Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc:

- Năm 938, Ngô Quyền dùng kì mưu đại phá quân Nam Hán:

                                “Bạch Đằng một trận giao phong,

                                 Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu”.

- Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến – chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược Mông – Nguyên:

                                "Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

                                 Xương bay trắngđất, máu màng đỏ sông”.

                                                            ("Đại Nam quốc sử diễn ca")

- Trở lại bài phú: "Đương khi ấy… " đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dòng sông nổi sóng với muôn đội thuyền bè. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt: “Tinh kì phấp phới – Hùng hổ sáu quân – giáo gươm sáng chói”.Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm "Sát Thát”, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co: “Trận đánh được thua chửa phân - Chiến luỹ Bắc Nam chống đối”. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:

“Ánh nhật nguyện chừ phải mờ

                                                     Bầu trời đất chừ sáp đổi

- “Đại Việt sử kí" ghi rõ. Các tướng như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhân lịch sử:

“Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

- Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và quy mô hoành tráng, kì vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì "quân Tào Tháo tan tác tro bay”… “quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bành trướng xâm lược của Lưu Cung, của Tất Liệt: 

"Trời cũng chiều người

                                                            Hungđồ hết lối”.

2. Lời bình luận về nguyên nhân chiến thắng trên sông Bạch Đằng

- Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm vànhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:

                                             “Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an

- Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. "Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước.

- Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để lại võ công lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt:

“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi Đại vương coi thế giặc nhàn”

- “Thế giặc nhàn" là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy, lần thứ 3 giặc Nguyên-Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn ”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: "Tiếng thơm còn mãi, bia mệng không mòn”.

=> Đoạn văn kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất. Hình ảnh kì vĩ, tráng lệ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về vinh và nhục, tiêu vong và vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Khắc họa suy nghĩ, lời nói nhân vật sinh động, hấp dẫn.

- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

- Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

 

Câu 4: Suy nghĩ về cảm hứng yêu nước qua Phú sông Bạch Đằng

Gợi ý:

1. Cảm hứng yêu nước

Cảm hứng yêu nước là một biểu hiện đa dạng, phong phú trong văn học. Đó là tình yêu thiên nhiên, phong cảnh quê hương, yêu những nét đẹp văn hóa, phong tục của dân tộc. Hay cảm hứng này thể hiện rõ nhất khi đất nước có giặc ngoại xâm. Chính là lòng căm thù giặc, tinh thần xả thân, hi sinh bảo vệ tổ quốc, âm hưởng hào hùng trong những ngày tháng chiến đấu và cả sự ngợi ca, trân trọng, biết ơn đến những bậc anh hùng. Phú sông Bạch Đằng cũng có những biểu hiện không ngoại lệ. Gọi bài phú là khúc trữ tình ca và anh hùng ca về đất nước rất phù hợp. Bởi qua đó, tác giả Trương Hán Siêu đã thổi nguồn cảm hứng yêu nước qua những cảm xúc với thiên nhiên, lịch sử, những giá trị nhân văn trên sông Bạch Đằng - con sông được coi là người chép sử vô ngôn cho hậu thế.

2. Cảm hứng yêu nước trong bài phú

a/ Niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên của sông Bạch Đằng:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

  Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

                                          Bát ngát sóng kình muôn dặm

                                          Thướt tha đuôi trĩ một màu

                                          Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.

- Tuy chỉ gói ghém trong vài ba câu tả cảnh nhưng cái thần trong ngòi bút của Trương Hán Siêu lại vẽ nên một khung cảnh thực sự hút hồn. Mấy nét chấm phá đầy lãng mạn, tinh tế đã làm nên vẻ đẹp của cảnh mùa thu trên dòng sông lịch sử. Có đường nét dữ dội, cuộn trào, bát ngát trong sóng kình muôn dặm. Có đường nét mềm mại, hiền hòa, thướt tha, nên thơ trong những con thuyền bơi một chiều như đuôi trĩ một màu. Có phông nền hòa hợp, nhất thể giữa sóng nước với mây trời. Phải có một lòng say mê với thiên nhiên lắm mới có một bức họa đỉnh cao trong văn chương như thế này. Cảm hứng yêu nước vì thế mà bộc bạch trong tâm hồn của một thi nhân khoáng đạt, lãng mạn không cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên.

- Nhân vật khách không chỉ tới sông Bạch Đằng để ngắm cảnh đẹp mà còn tìm kiếm những dấu vết lịch sử lưu lại của những chiến công lẫy lừng, vang dội khi xưa. Mang trong mình những cảm khái, ưu tư, mặc khách ấy không sao tránh được nỗi niềm hoài cổ trước một cảnh trí đầy tiêu sơ. Cảnh đẹp nhưng nó lại khoác lên mình vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thuở. Những bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô đã chạm đến cảm thức thi nhân khiến mọi thứ trở nên u buồn, thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Điều ấy đã gợi lên một thái độ mong mỏi, cần phải tiếp tục giữ gìn, trân trọng những gì đã qua, nhất là những giá trị lịch sử linh thiêng của dân tộc. Tinh thần yêu nước vì thế càng trở nên ngời sáng.

b/ Niềm tự hào về những chiến công lịch sử oanh liệt trên sông Bạch Đằng 

- Không khí chiến trận, những khoảnh khắc cam go, quyết liệt dưới màu sắc cường điệu, ước lệ vốn có của văn chương trung đại đã làm sống dậy cả một truyền thống oai hùng, bất khuất của dân tộc:

Đương khi ấy:

                       Mà nhục quân thù khôn rửa nổi

- Trận đánh trên sông Bạch Đằng được ví như những trận đánh huyền thoại của Trung Quốc: Xích Bích, Hợp Phì còn ẩn chứa cả một niềm tự hào dân tộc quá đỗi lớn lao. Bởi trong cái nhìn của nước lớn Trung Hoa, nước Nam Việt luôn nhỏ bé, chỉ được coi là phên giậu, chư hầu. Ấy vậy mà những Tất Liệt, Lưu Cung chỉ còn nước ôm theo giấc mộng quét sạch Nam bang bốn cõi chỉ trong một lần gieo roi theo nỗi nhục ngàn năm không rửa sạch như nước sông cứ chảy hoài không ngơi nghỉ.

- Tái hiện lịch sử là để ngợi ca những chiến công oanh liệt và những con người làm nên điều ấy. Trương Hán Siêu tự hào lắm khi gọi tên các bậc anh hùng đầy trang trọng như Trùng Hưng nhị thánh, Ngô chúa, khác hẳn với cách gọi coi thường bằng tên trực tiếp bọn tướng giặc. Ông cũng đầy kiêu hãnh khi nhìn ra thắng lợi vẻ vang của dân tộc là nhờ trời cho nơi đất hiểm, đất nước có những nhân tài đã quy tụ được lòng dân. Trong cảm hứng của khúc tráng ca ngút ngàn ấy, con người – những bậc minh quân, khai tướng đã trở thành những biểu tượng cho lòng yêu nước cháy bỏng bằng tài năng, đức độ. Để ngàn năm tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn/ nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Trong Tỏ lòng, nhà thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã thể hiện sắc thái tự hào, ngợi ca con người và thời đại hào khí Đông A như thế, nhưng là ngay thời điểm hiện tại trong khí thế cả vua quân, tướng sĩ nhà Trần đang đánh giặc. Còn ở đây, Trương Hán Siêu chỉ nhìn lại thôi, mà vẫn đong đầy, chan chứa sự mến trọng, nâng niu.

- Nhìn lại khát vọng viễn du của đấng mặc khách, tao nhân trong bài phú thì có thể thấy cảm thức trước thiên nhiên chỉ là một phần, mà điều ông hướng tới chính là khẳng định những giá trị lịch sử, giá trị truyền thống của một đất nước. Đó là biểu hiện sáng ngời của tinh thần yêu nước trong văn chương. Phú sông Bạch Đằng đã góp thêm vào dòng chảy của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Việt Nam những giá trị như thế. Tác phẩm đã chạm đến những kí ức không thể quên, khơi dậy về truyền thống lích sử vẻ vang, oai hùng, thức tỉnh những giá trị truyền thống đạo lý của dân tộc và hơn hết để khẳng định tầm quan trọng lớn lao của con người đối với lịch sử mà thời đại nào cũng cần.

c. Nghệ thuật

- Khắc họa suy nghĩ, lời nói nhân vật sinh động, hấp dẫn.

- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

- Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

 

Khách