Nội dung lý thuyết
- Thế Lữ (1907- 1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ.
- Quê quán: Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội).
- Ông là nhà thơ tiêu biểu trong thơ mới hiện đại (1932 - 1945).
- Ngoài viết thơ, Thế Lữ còn viết truyện với nhiều thể loại như trinh thám, truyện kinh dị...
- Ông cũng hoạt động trên lĩnh vực sân khấu, có công trong xây dựng ngành kịch nói ở nước ta.
- Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
- Tác phẩm tiêu biểu: Bên đường Thiên lôi, Mấy vần thơ…
- Phong cách sáng tác: Thơ ông dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những ẩn ý sâu sắc vô cùng.
a. Xuất xứ
Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, sau được in trong tập Mấy vần thơ - 1935.
b. Bố cục
- Đoạn 1 và 4: Cảnh vườn bách thú, nơi con hổ đang bị giam cầm.
- Đoạn 2 và 3: Cảnh núi non hùng vĩ, nơi con hổ "tung hoành hống hách ngày xưa".
- Đoạn 5: Niềm khao khát tự mãnh liệt.
c. Thể thơ
- Thể thơ 8 chữ.
- Đây là sự sáng tạo của thơ mới, trên cơ sở kế thừa thơ 8 chữ truyền thống.
- Đoạn thơ thứ nhất chủ yếu thể hiện tâm trạng con hổ trong cảnh ngộ bị tù hãm ở vườn bách thú. Từ chỗ "chúa tể muôn loài", đang tunh hoành chốn nước non hùng vĩ, nay bị nhốt chặt trong cũi sắt, trở thành thứ đồ chơi cho đám người nhỏ bé mà ngạo mạn, ngang bầy với bọn "dở hơi", "vô tư lự" - những hạng tầm thường, vô nghĩa lí, con hổ vô cùng căm uất, ngao ngán. Nhưng không có cách gì thoát ra khỏi môi trường tù túng, tầm thường, chán ngắt ấy, con hổ chỉ đành buông xuôi bất lực "nằm dài trông ngày tháng dần qua".
- Ở đoạn thơ thứ 4, cảnh vườn bách thú hiện ra với cái nhìn của chúa sơn lâm thật đáng chán, đáng khinh, đáng ghét. Tất cả chỉ là đơn điệu, nhàm tẻ, "không đời nào thay đổi", đều chỉ là nhân tạo, do bàn tay sửa sang, tỉa tót của con người nên rất "tầm thường, giả dối" chứ không phải là thế giới của tự nhiên to lớn, mạnh mẽ, bí hiểm:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
- Giọng giễu nhại của những câu thơ trên, với một loạt từ ngữ liệt kê liên tiếp, với cách ngắt nhịp dồn dập ở hai câu đầu và những câu thơ tiếp theo đọc liền kéo dài ra, giọng chán chường, khinh miệt.
=> Cảnh vườn bách thú "tầm thường giả dối" và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú của con hổ cũng chính là thái độ của họ đối với xã hội.
- Đoạn 2 và 3 là hai đoạn hay nhất bài thơ, miêu tả cânhr sơn lâm hùng vĩ và hình ảnh con hổ - chúa sơn lâm ngự trị trong vương quốc của nó. Đó là cảnh núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường: bóng cả; cây già; gió gào ngàn; nguồn hét núi; thét khúc trường ca dữ dội..., cũng hoang vu, bí mật. Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh nước non hùng vĩ, là oai linh, ghê gớm...
- Trên cái phông nền rừng núi hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra nổi bật với một vẻ oai phong lẫm liệt. Khi rừng thiêng tấu lên "khúc trường ca dữ dội" thì con hổ cũng "bước chân lên" với một tư thế "dõng dạc, đường hoàng", và nó:
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
- Những câu thơ sống động, giàu chất tạo hình, đã diễn tả chính xác vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại, uyển chuyển của chúa sơn lâm.
- Đoạn 3 của bài thơ có thể coi như một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Đó là cảnh "những đêm vàng bên bờ suối" hết sức diễm ảo với hình ảnh con hổ "say mồi đứng uống ánh trăng tan" đầy lãng mạn. Đó là cảnh "ngày mưa chuyển bốn phương ngàn" với hình ảnh con hổ mang dáng dấp đế vương: "Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới". Đó là cảnh "bình minh cây xanh nắng gội" chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca đang ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm. Và đó là cảnh "chiều lênh láng máu sau rừng" thật dữ dội với con hổ đang chờ đợi mặt trời "chết" để chiếm lấy riêng phần bí mật" trong vũ trụ. Ở cảnh nào, núi rừng cũng mang cảnh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, và con hổ cũng nổi bật lên với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng, đúng là một chúa sơn lâm đầy uy lực.
- Nhưng đó chỉ là dĩ vãng huy hoàng, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ da diết đến đau đớn của con hổ. Một loạt điệp ngữ: nào đâu, đâu những... cứ lặp đi lặp lại, diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc khôn nguôi cả con hổ đối với những cảnh không bao giờ còn thấy nữa. Và giấc mơ huy hoàng đó đã khép lại trong tiếng than u uất: "- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?".
- Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt hai cảnh tượng, hai thế giới, nhà thơ đã thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc đối với thực tại và niềm khát khao tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước khi đó. Có thể nói, bài thơ đãm chạm tới huyệt thần kinh nhạy cảm nhất của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ "bị nhục nhằn tù hãm", cũng "gậm một khối căm hờn trong cũi sắt" và tiếc nhớ khôn nguôi "thời oanh liệt" với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc. Chính vì vậy, bài thơ vừa ra đời đã được công chúng say sưa đón nhận. Họ cảm thấy lời con hổ trong bài thơ chính là tiếng lòng sâu kín của họ.
- Cả bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn; mạch cảm xúc sôi nổi, cuồn cuộn cứ tuôn trào dưới ngòi bút của nhà thơ. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất của bút pháp thơ lãng mạn, và cũng là yếu tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ.
- Với hình tượng con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã có một biểu tượng rất thích hợp và vẻ đẹp để thể hiện chủ đề của bài thơ. Con hổ có một vẻ đẹp oai hùng, lại được coi là chúa sơn lâm, đầy uy quyền trong chốn nước non hùng vĩ, nay bị tù hãm trong cũi sắt, là biểu tượng rất thích hợp về người anh hùng chiến bại mang tâm sự u uất.
- Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, đầy ấn tượng. Đặc biệt là những hình ảnh. chi tiết trong cảnh sơn lâm hùng vĩ, tất cả đều toát lên một vẻ đẹp tráng lệ, khoáng đạt, phi thường, đồng thời rất thơ mộng.
- Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm, thể hiện "đắt" ý thơ.
- Bài thơ mang đầy nhạc tính, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt (có câu ngắt nhịp rất ngắn, có câu lại trải dài). Giọng thơ khi thì u uất, bực dọc, dằn vặt, khi thì say sưa, tha thiết, hùng tráng, song tất cả vẫn nhất quán, liền mạch và tràn đầy cảm xúc.
1. Nghệ thuật
- Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình.
- Thể thơ tám chữ và giọng điệu thiết tha, hùng tráng.
2. Nội dung
Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.