Giúp mình với mn ơi mình cảm ơn rất nhièu ạ !
Giúp mình với mn ơi mình cảm ơn rất nhièu ạ !
Viết cảm nghĩ và phân tích về 6 câu đầu của bài chi khí anh hùng
Tham khảo
Thông thường, để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của một hình tượng nhân vật, người ta hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc thù là đối mặt với gian nan thử thách. Dân gian vẫn có câu “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, lại câu “Gian nan là nợ anh hùng phải vay” là thế. Phải chiến thắng được những gian nan thử thách ấy thì mới khẳng định được bản lĩnh và chí khí anh hùng. Những gian nan thử thách nào vậy? Thử thách ngoài mình và thử thách trong mình. Thắng những thế lực ngoài mình đã khó hơn thắng kẻ địch, thắng thiên nhiên đã khó nhưng thắng những thói thường trong mình còn khó gấp bội. Không ít người chiến thắng được uy vũ, nhuhg lại gục ngã trước những mời mọc đầy cám đỗ trong mình. Mà rốt cuộc, nói đến anh hùng là nói đến cái phi thường. Muốn làm chuyện phi thường thì cũng cần phải thắng được cái bình thường.
Nguyễn Du không chỉ khắc họa Từ Hải lập nên nhiều kì tích phi thường, ông còn làm nổi bật tính cách anh hùng của Từ Hải khi đặt nhân vật đối mặt và vượt lên cái bình thường. Đoạn trích Chí anh hùng này là thế. Ở đây có những vướng bận gia đình, có “Thói nữ nhi thường tình”. Nên bề ngoài có thể xem cái gian nan thử thách trong lòng mà Từ phải đổi mặt để giải quyết là vấn đề “anh hùng và mĩ nhân” – mĩ nhân cản bước, còn anh hùng thì vượt ải mĩ nhân. Nghĩ thế không sai, nhưng cũng không hẳn. Xem kĩ, Kiều đâu có cản bước Từ Hải, Từ Hải đâu có rũ bỏ Kiều. Vậy, có thể coi đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc lứa đôi và lí tưởng anh hùng chăng? Cũng không hẳn, sau khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ Hải đã có Kiều, đã sống cùng mĩ nhân. Nhưng chỉ vậy thôi là chưa thỏa, điều Từ Hải muôn đó là phải tạo được sự nghiệp anh hùng nữa, bấy giờ trai anh hùng mới thật xứng với gái thuyền quyên. Nghĩa là Từ Hải muôn hướng tới một hạnh phúc phi thường. Chỉ bao giờ được thế, Từ Hải mới thỏa chí. Cho nên, xét cho cùng đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc nhỏ – bình thường và hạnh phúc lớn – phi thường.
Không cần phải đọc kĩ lắm cũng có thể thấy đoạn thơ đã tự hình thành hai phần nhỏ hơn. Phần một gồm bốn câu đầu: hình ảnh lên đường của Từ Hải. Phần hai là đoạn còn lại: cuộc đối thoại Từ Hải — Thuý Kiều khi Từ dứt áo ra đi. Cũng lạ, Nguyễn Du dựng cảnh Từ Hải lên đường trước, rồi lời từ biệt mới đến sau. Ở đây, dù chưa phải là khung cảnh nhân vật đang chọc trời khuấy nước, Nguyễn Du vẫn làm nổi lên tầm vóc của Từ Hải. Hơn nữa, chưa phải bộc lộ minh bằng hành vi, mà mới chỉ qua lời nói – lời nói với vợ thôi, chí khí anh hùng của Từ Hải cũng đã toát lên mãnh liệt. Từ Hải ít nhiều đã được mô tả trong không gian tổ ấm. Điều này có lí của nó: tổ ấm thường tình không phải là cái không gian hợp với tầm vóc kẻ phi thường, nếu không nói là không gian ây sẽ tù hãm người anh hùng. Ra khỏi cái tổ âm hương lửa đương nồng của hạnh phúc lứa đôi, Từ mới thực là Từ. Đúng thế, Từ Hải chỉ thực sự là mình trong không gian trời đất:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Sự nồng nàn của tình yêu, vị ngọt ngào của hạnh phúc có thể là chất xúc tác, cũng có thể là chất bào mòn chí khí kẻ anh hùng. Mĩ nhân có thể là động lực của kẻ anh hùng, cũng có thể đánh đắm những sự nghiệp anh hùng. Sau này, Chế Lan Viên có nói đến cái hình ảnh “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” là cũng theo nghĩa bào mòn, đánh đắm ấy, chúng từng là giấc mơ con đè nát bao cuộc đời cỏn con. Từ Hải khấc mĩ nhân, hạnh phúc chỉ mới là một nửa đời chàng, tình nhân lãng mạn mới chỉ là một nửa con người chàng. Từ còn một nửa khác: một khách anh hùng với sự nghiệp cái thế. Một chữ “thoắt” đã cho thấy tính cách anh hùng của Từ. Đó là sự thức dậy mau lẹ của con người của một mái nhà. Trái lại, Từ sinh ra là thuộc về bốn phương. Ngang dọc bốn phương mới thực sự là sứ mạng, thực sự là cuộc sống của chàng. Rời khỏi một mái ấm, Từ đến với không gian thực của mình: không gian càn khôn trời đất.
Trong Truyện Kiều, chữ “thoắt” thường chứa đựng những biến cố, đôi khi là biến cố trọng đại. Có thể đó là biến cố đầy ngang trái “Thoắt mua về thoắt bán đi”. Có thể đó là biến cố đau thương “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiền hương…”. Chữ “thoắt” này diễn ra âm thầm, nhưng thực sự cũng chứa đựng một biến cố lớn của đời Từ. Bắt đầu từ giây phút ấy, Từ mới thực sự sông rồi chết lẫm liệt như một anh hùng cái thế. Và như vậy, chữ “thoắt” đã chia đời Từ Hải làm hai thật rành rẽ: nó là dấu ngắt cho một bản tình ca hùng tráng đồng thời mở đầu cho bản hùng ca bi tráng.
Đúng là Nguyễn Du đã khắc hoạ Từ Hải thật hoành tráng:
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Đó là hình tượng tráng sĩ. Người đọc thơ cổ điển có thể liên tưởng đến một nhân vật khác cũng thuộc thế kỉ XVIII, trong Chinh phục ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Cả hai đều toát lên vẻ oai phong lẫm liệt đầy lí tưởng của những trang hào kiệt. Nhưng, nếu chàng chinh phu được tô điểm bằng sắc màu lãng mạn trong cái nhìn kiêu hãnh và trìu mến của nàng chinh phụ, thì Từ Hải lại được tạo hình bằng đường nét ngạo nghễ trên cái nền kì vĩ của không gian. Một đằng lẫm liệt cùng sắc phục, một đằng mênh mang khát vọng. Đằng là vẻ đẹp quý phái, đằng là vẻ đẹp phong trần.
Có thể nói, bên cạnh những hình ảnh “Chọc trời khuấy nước mặc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, hay “Phong trần mài một lưỡi gươm – Những phường giá áo túi cơm xá gì”, “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo…”thì “Trông vài trời bể mênh mang – Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cũng là một bức chân dung hết sức hoàn hảo mà Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải.
Đoạn hai là một màn đối thoại. Lời tác giả nhường hẳn cho lời nhân vật. Các nhân vật bộc lộ phẩm cách của mình qua ngôn ngữ của chính mình. Nếu ở Thuý Kiều là lối nói đúng mực của người đàn bà nề niếp, trọng bổn phận đạo lí, nhưng cũng không thiếu kiên tâm, thì ở Từ Hải là lối nói sắt đá, quyết đoán của một bậc trượng phu, song cũng không phải vô tình, Kiều viện đạo phu thê, Từ lại viện đạo tri kỉ. Kiều ứng xử theo lẽ bình thường, Từ ứng xử theo lối phi thường. Nàng muốn được theo chân Từ Hải
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đì!”
Kiều viện ra đạo lí phu thê thường tình vừa như một lí lẽ vừa như một thề nguyền để thuyết phục từ Hải. Nàng muốn được kề vai sát cánh chia ngọt sẻ bùi cùng chồng. Còn Từ Hải có chấp nhận cái thường tình không? Chấp thuận cái thường tình thì còn đâu là kẻ phi thường. Đó không thể là cung cách Từ Hải. Nhưng Từ cũng không nỡ gạt đi một cách lạnh lùng, mà cũng viện ra những lí lẽ riêng để thuyết phục Kiều. Chàng xuất phát từ đạo lí khác: đạo lí tri kỉ. Từ Hải xem đạo tri kỉ cao trọng hơn đạo phụ thê. Một khi đã là tri kỉ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, thì không nên câu nệ lẽ phu thê theo thói thường của người đời:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Chỉ qua cảm nhận 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng mà tác giả đã khắc họa được hình ảnh tình yêu son sắt của người vợ là Kiều dành cho Từ Hải, cũng phần nào làm nổi bật lên chí khí của người anh hùng một lòng vì nước, lòng tin vào bản thân trên cả chiến trường lẫn cả trong tình yêu.
một hình chữ nhật có chiều dài là 4,5 m và chiều rộng là 2,5 m Tính chu vi
Phân tích bài "Trí Khí Anh Hùng"
Tk:
Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bấn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một nam trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:
“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 – 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du