Cùng mang tâm trạng bất hoà, bất lực sâu sắc trước thực tại đương thời, nhưng không như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thường thả hồn mình theo những ước mơ về chốn Bồng Lai tiên cảnh, Á Nam Trần Tuấn Khải lại trở về quá khứ, lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc . Mượn những biểu tượng nghệ thuật bóng gió hay những đề tài lịch sử, nhà thi sĩ họ Trần bộc lộ tất cả nỗi đau mất nuớc, sự căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai, đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập tự do. Đoạn trích mở đầu bài thơ Hai chữ nước nhà đã bộc lộ một cách mãnh liệt tình cảm yêu nước ấy.
Hoá thân vào nhân vật Nguyễn Phi Khanh ngày bị giặc bắt đem sang Trung Quốc đã nén tình nhà mà nghĩ về việc nước, Á Nam Trần Tuấn Khải kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình. Ngày đó, khi “quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa”, người con trai Nguyễn Trãi đang định theo cha sang nơi đất khách quê người phụng dưỡng tuổi già, làm trọn chữ hiếu đành gạt nước mắt trở về lo trả thù nhà, đáp đền nợ nước. Lời cha khuyên con cũng là lời trăng trối của Người để lại trước giờ vĩnh biệt. Bao trùm bài thơ là nỗi xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm thầm kín mà mãnh liệt đã được thể hiện bởi một giọng thơ lâm ly, thống thiết ,tràn đầy cảm xúc. Thi sĩ đã tìm đến với thể song thất lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc – vốn có nhạc tính phong phú, vừa gân guốc trang trọng vừa mềm dịu thiết tha, thích hợp để diễn tả tiếng lòng sầu thảm hay nỗi niềm bi phẫn, oán than, làm nên giọng điệu đặc sắc của bài thơ.
Tám câu thơ mở đầu với tâm trạng người cha yêu nước Nguyễn Phi Khanh trong cảnh ngộ éo le đau đớn:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Cuộc chia ly của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút, chỉ có những đám “mây sầu” như nỗi niềm con người và những âm thanh “bốn bề hổ thét chim kêu” xé toạc tâm trạng. Đã đến địa đầu phía Bắc Tổ quốc… Chỉ vài bước chân nữa thôi, chỉ vài giây ngắn ngủi là Nguyễn Phi Khanh đã vĩnh viễn xa lìa đất nước, quê hương. Cái nhìn ngoái lại như cố khắc ghi hình bóng thân quen vào sâu thẳm tâm trí người đi. Buồn thay, hình ảnh cuối cùng của Tổ quốc lại là “cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, là cảnh hiện thực đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. Có thể hình dung ra từng bứơc chân nặng nề, chậm chạp của con người.
Hoàn cảnh bi kịch đã đặt hai cha con vào tình thế éo le, nghiệt ngã, buộc phải lựa chọn giữa tình nhà và nghĩa nước. Cha ra đi lần này chẳng mong ngày trở lại, con xót thân cha tuổi già không người chăm sóc nhưng cả hai đã ý thức rất rõ vai trò và nghĩa vụ của mình đối với dân, với nước. Cảnh nước lâm nguy, cảnh nhà ly tán… Tâm trạng con người đã chân thật hoá “hạt máu nóng” và “giọt châu rơi” vốn là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ xưa. Một lời nhắn nhủ giản dị mộc mạc như lời tâm tình khiến người nghe khắc cốt ghi tâm: “Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”. Một lời nói tưởng rất nhẹ nhàng mà chứa cả sức nặng tâm trạng làm lay động lòng người.
Giờ phút chia tay, lẽ ra nỗi đau thân phận sẽ choán hết tâm tư con người. Nhưng không, tấm lòng con người yêu nước chỉ còn lại cảnh đau thương, tang tóc của nước nhà:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng, máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Những câu thơ vẽ nên hiện thực đất nước thời giặc Minh thống trị mà gợi về mấy trăm năm sau, những năm hai mươi của thế kỷ XX đương thời. Lời Nguyễn Phi Khanh hay cũng là tâm tình sâu thẳm từ đáy lòng tác giả. “Giống Lạc Hồng hoàng thiên đã định-Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay-Giời Nam riêng một cõi này” mà nay đã rơi vào tay giặc. Niềm tự hào về lãnh thổ, về chủ quyền dân tộc giờ đây lắng xuống, nhường cho nỗi đau mất nước khôn nguôi. Từ cảnh bao quát với “khói lửa bừng bừng” khắp bốn phương trời, với thảm hoạ “xương rừng máu sông” đến cảnh quay đặc tả, chi tiết “thành tung quách vỡ”, “bỏ vợ lìa con” tất cả tạo nên một lời tố cáo đanh thép trong nỗi căm hận không cùng. Những người dân trong hoàn cảnh bi thương mất mát đó có lẽ cũng dễ đồng cảm với nhà thơ trước nền “văn minh khai hoá” mà bọn người “khác giống” mang đến cho dân tộc. Bức tranh đau thương của quê hương Tổ quốc Việt Nam hiện lên mang theo nỗi thương cảm xót xa, đau đớn chân thành của những người vợ xa chồng, những người cha xa con, của toàn thể nhân dân đất Việt:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Không còn là tiếng lòng của một người dân riêng lẻ nữa rồi. Rõ ràng đây là tiếng non sông vọng về với đồng bào dân tộc khắp mọi miền Tổ quốc. Cả một không gian rùng mình chuyển động thể hiện những tâm tư : đất khóc giời than, khói Nùng Lĩnh xây khối uất, sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu. Đâu chỉ có con người mới biết đau đớn, biết căm giận, ngay đến núi sông, đất trời cũng quằn quại, giãy giụa ,cũng uất ức, sầu thương. Tất cả những tâm trạng của thiên nhiên, của người dân mất nước, mất tự do đã đẩy đến tận cùng cảm giác, kết lại thành một nỗi sầu đau nhường xé tâm can. Từng khối căm uất dâng lên từ khói Nùng Lĩnh cuồn cuộn phủ chụp một màn khói sương mịt mờ khắp non sông, từ dòng đau ăm ắp vật vã, dồn dập của sóng nước sông Hồng.
Những lời kể với bao từ cảm thán, bao hình ảnh gợi cảm mãnh liệt, sâu sắc cắt nghĩa cho một nỗi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước, cơ đồ, nòi giống. Nhà thơ muốn nhân dân thức tỉnh và nhận ra nỗi đau kinh động cả đất trời ấy, một nỗi niềm tha thiết mà trước đó, Phạm Tất Đắc cũng từng thấu hiểu hơn ai hết:
Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn
Mà xót thương đến chốn Nhị, Nùng
[…]
Cảnh như thế tình thì như thế
Sống mà chi, sống để làm chi
Đời người đến thế còn gì!
Nuớc non đến thế còn gì nước non!
(Chiêu hồn nuớc)
Mỗi câu thơ là một tiếng than, một iếng nấc nghẹn ngào, xót xa, cay đắng. Giọng thơ tâm huyết, đầy bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải đã thể hiện một sức rung động lớn, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu lúc bấy giờ.
Trước tình cảnh đất nước đang cơn nghiêng nghèo, người cha nói đến cái thế bất lực của mình:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Lời nói thốt ra sao mà xót xa, cay đắng! Nguyễn Phi Khanh đành gửi gắm niềm tin vào con, vào thế hệ mai sau:
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Chấp nhận “bó tay” để trao gửi nhiệm vụ, trọng trách gánh vác sơn hà cho con, người cha đã đặt vào đó một chữ “cậy” với bao niềm hy vọng, tin yêu. Ẩn sau lời cha truyền dạy con vào giây phút gặp gỡ cuối cùng là tâm sự thiết tha, sâu kín của chàng trai trẻ Á Nam Trần Tuấn Khải. Không thể trực tiếp nói lên khát vọng độc lập, tự do, nhà thơ đã đưa người đọc trở về quá khứ hào hùng của dân tộc:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…
Con nên nhớ – ba từ trang trọng gợi nhớ về quãng thời gian bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, gợi về bao tấm gương cao đẹp đã xả thân vì Tổ quốc:
Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì
Người thanh niên yêu nước Á Nam đang kể về lời dặn dò của Nguyễn Phi Khanh trước giờ vĩnh biệt hay đang nhắn nhủ bạn đọc đương thời? Phải, đã bao lần tổ tiên gian lao để giữ vững ranh giới của đất nước, ranh giới Bắc Nam. Hình ảnh “ngọn cờ độc lập máu đào còn dây” phải chăng là một niềm tự hào trước lịch sử oai hùng, là lời nhắc nhở về truyền thống dân tộc? Và “ngọn cờ độc lập” ấy là mục đích nhà thơ hướng đến, là niềm khích lệ, thúc đẩy, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn của thế hệ trẻ. Lời trao gửi “giang sơn gánh vác sau này cậy con” vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ mang tựa đề Hai chữ nước nhà. Nước và nhà là hai khái niệm riêng biệt, diễn tả nỗi đau nuớc mất nhà tan và hoàn cảnh trớ trêu : đất nước lâm nguy – cha con ly biệt. Gắn với vận mệnh đất nước, thù nhà chỉ có thể trả xong khi thù nước không còn, khi người con đã đề nợ nước. Lấy nước làm nhà, lấy cái trung, cái nghĩa đối với nước để đền đáp chữ hiếu sâu nặng với cha, âu cũng là một cách giải quyết “trọn vẹn đôi đường”, nặng tình hợp lý.
Qua Hai chữ nước nhà, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện một tình yêu sâu sắc đối với đất nước, nỗi hận khôn nguôi trước tội ác kẻ thù và tha thiết mong mỏi nền độc lập tự do. Bài thơ vang vọng như tiếng hịch truyền của non sông kêu gọi đồng bào qua thể thơ song thất lục bát và giọng điệu trữ tình tha thiết mãi mãi còn đọng lại trong tâm trí mọi người dân yêu nước xưa và nay.
Cùng mang tâm trạng bất hoà, bất lực sâu sắc trước thực tại đương thời, nhưng không như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thường thả hồn mình theo những ước mơ về chốn Bồng Lai tiên cảnh, Á Nam Trần Tuấn Khải lại trở về quá khứ, lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc . Mượn những biểu tượng nghệ thuật bóng gió hay những đề tài lịch sử, nhà thi sĩ họ Trần bộc lộ tất cả nỗi đau mất nuớc, sự căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai, đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập tự do. Đoạn trích mở đầu bài thơ Hai chữ nước nhà đã bộc lộ một cách mãnh liệt tình cảm yêu nước ấy.
Hoá thân vào nhân vật Nguyễn Phi Khanh ngày bị giặc bắt đem sang Trung Quốc đã nén tình nhà mà nghĩ về việc nước, Á Nam Trần Tuấn Khải kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình. Ngày đó, khi “quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa”, người con trai Nguyễn Trãi đang định theo cha sang nơi đất khách quê người phụng dưỡng tuổi già, làm trọn chữ hiếu đành gạt nước mắt trở về lo trả thù nhà, đáp đền nợ nước. Lời cha khuyên con cũng là lời trăng trối của Người để lại trước giờ vĩnh biệt. Bao trùm bài thơ là nỗi xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm thầm kín mà mãnh liệt đã được thể hiện bởi một giọng thơ lâm ly, thống thiết ,tràn đầy cảm xúc. Thi sĩ đã tìm đến với thể song thất lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc – vốn có nhạc tính phong phú, vừa gân guốc trang trọng vừa mềm dịu thiết tha, thích hợp để diễn tả tiếng lòng sầu thảm hay nỗi niềm bi phẫn, oán than, làm nên giọng điệu đặc sắc của bài thơ.
Tám câu thơ mở đầu với tâm trạng người cha yêu nước Nguyễn Phi Khanh trong cảnh ngộ éo le đau đớn:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Cuộc chia ly của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút, chỉ có những đám “mây sầu” như nỗi niềm con người và những âm thanh “bốn bề hổ thét chim kêu” xé toạc tâm trạng. Đã đến địa đầu phía Bắc Tổ quốc… Chỉ vài bước chân nữa thôi, chỉ vài giây ngắn ngủi là Nguyễn Phi Khanh đã vĩnh viễn xa lìa đất nước, quê hương. Cái nhìn ngoái lại như cố khắc ghi hình bóng thân quen vào sâu thẳm tâm trí người đi. Buồn thay, hình ảnh cuối cùng của Tổ quốc lại là “cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, là cảnh hiện thực đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. Có thể hình dung ra từng bứơc chân nặng nề, chậm chạp của con người.
Hoàn cảnh bi kịch đã đặt hai cha con vào tình thế éo le, nghiệt ngã, buộc phải lựa chọn giữa tình nhà và nghĩa nước. Cha ra đi lần này chẳng mong ngày trở lại, con xót thân cha tuổi già không người chăm sóc nhưng cả hai đã ý thức rất rõ vai trò và nghĩa vụ của mình đối với dân, với nước. Cảnh nước lâm nguy, cảnh nhà ly tán… Tâm trạng con người đã chân thật hoá “hạt máu nóng” và “giọt châu rơi” vốn là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ xưa. Một lời nhắn nhủ giản dị mộc mạc như lời tâm tình khiến người nghe khắc cốt ghi tâm: “Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”. Một lời nói tưởng rất nhẹ nhàng mà chứa cả sức nặng tâm trạng làm lay động lòng người.
Giờ phút chia tay, lẽ ra nỗi đau thân phận sẽ choán hết tâm tư con người. Nhưng không, tấm lòng con người yêu nước chỉ còn lại cảnh đau thương, tang tóc của nước nhà:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng, máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Những câu thơ vẽ nên hiện thực đất nước thời giặc Minh thống trị mà gợi về mấy trăm năm sau, những năm hai mươi của thế kỷ XX đương thời. Lời Nguyễn Phi Khanh hay cũng là tâm tình sâu thẳm từ đáy lòng tác giả. “Giống Lạc Hồng hoàng thiên đã định-Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay-Giời Nam riêng một cõi này” mà nay đã rơi vào tay giặc. Niềm tự hào về lãnh thổ, về chủ quyền dân tộc giờ đây lắng xuống, nhường cho nỗi đau mất nước khôn nguôi. Từ cảnh bao quát với “khói lửa bừng bừng” khắp bốn phương trời, với thảm hoạ “xương rừng máu sông” đến cảnh quay đặc tả, chi tiết “thành tung quách vỡ”, “bỏ vợ lìa con” tất cả tạo nên một lời tố cáo đanh thép trong nỗi căm hận không cùng. Những người dân trong hoàn cảnh bi thương mất mát đó có lẽ cũng dễ đồng cảm với nhà thơ trước nền “văn minh khai hoá” mà bọn người “khác giống” mang đến cho dân tộc. Bức tranh đau thương của quê hương Tổ quốc Việt Nam hiện lên mang theo nỗi thương cảm xót xa, đau đớn chân thành của những người vợ xa chồng, những người cha xa con, của toàn thể nhân dân đất Việt:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Không còn là tiếng lòng của một người dân riêng lẻ nữa rồi. Rõ ràng đây là tiếng non sông vọng về với đồng bào dân tộc khắp mọi miền Tổ quốc. Cả một không gian rùng mình chuyển động thể hiện những tâm tư : đất khóc giời than, khói Nùng Lĩnh xây khối uất, sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu. Đâu chỉ có con người mới biết đau đớn, biết căm giận, ngay đến núi sông, đất trời cũng quằn quại, giãy giụa ,cũng uất ức, sầu thương. Tất cả những tâm trạng của thiên nhiên, của người dân mất nước, mất tự do đã đẩy đến tận cùng cảm giác, kết lại thành một nỗi sầu đau nhường xé tâm can. Từng khối căm uất dâng lên từ khói Nùng Lĩnh cuồn cuộn phủ chụp một màn khói sương mịt mờ khắp non sông, từ dòng đau ăm ắp vật vã, dồn dập của sóng nước sông Hồng.
Những lời kể với bao từ cảm thán, bao hình ảnh gợi cảm mãnh liệt, sâu sắc cắt nghĩa cho một nỗi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước, cơ đồ, nòi giống. Nhà thơ muốn nhân dân thức tỉnh và nhận ra nỗi đau kinh động cả đất trời ấy, một nỗi niềm tha thiết mà trước đó, Phạm Tất Đắc cũng từng thấu hiểu hơn ai hết:
Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn
Mà xót thương đến chốn Nhị, Nùng
[…]
Cảnh như thế tình thì như thế
Sống mà chi, sống để làm chi
Đời người đến thế còn gì!
Nuớc non đến thế còn gì nước non!
(Chiêu hồn nuớc)
Mỗi câu thơ là một tiếng than, một iếng nấc nghẹn ngào, xót xa, cay đắng. Giọng thơ tâm huyết, đầy bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải đã thể hiện một sức rung động lớn, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu lúc bấy giờ.
Trước tình cảnh đất nước đang cơn nghiêng nghèo, người cha nói đến cái thế bất lực của mình:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Lời nói thốt ra sao mà xót xa, cay đắng! Nguyễn Phi Khanh đành gửi gắm niềm tin vào con, vào thế hệ mai sau:
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Chấp nhận “bó tay” để trao gửi nhiệm vụ, trọng trách gánh vác sơn hà cho con, người cha đã đặt vào đó một chữ “cậy” với bao niềm hy vọng, tin yêu. Ẩn sau lời cha truyền dạy con vào giây phút gặp gỡ cuối cùng là tâm sự thiết tha, sâu kín của chàng trai trẻ Á Nam Trần Tuấn Khải. Không thể trực tiếp nói lên khát vọng độc lập, tự do, nhà thơ đã đưa người đọc trở về quá khứ hào hùng của dân tộc:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…
Con nên nhớ – ba từ trang trọng gợi nhớ về quãng thời gian bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, gợi về bao tấm gương cao đẹp đã xả thân vì Tổ quốc:
Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì
Người thanh niên yêu nước Á Nam đang kể về lời dặn dò của Nguyễn Phi Khanh trước giờ vĩnh biệt hay đang nhắn nhủ bạn đọc đương thời? Phải, đã bao lần tổ tiên gian lao để giữ vững ranh giới của đất nước, ranh giới Bắc Nam. Hình ảnh “ngọn cờ độc lập máu đào còn dây” phải chăng là một niềm tự hào trước lịch sử oai hùng, là lời nhắc nhở về truyền thống dân tộc? Và “ngọn cờ độc lập” ấy là mục đích nhà thơ hướng đến, là niềm khích lệ, thúc đẩy, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn của thế hệ trẻ. Lời trao gửi “giang sơn gánh vác sau này cậy con” vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ mang tựa đề Hai chữ nước nhà. Nước và nhà là hai khái niệm riêng biệt, diễn tả nỗi đau nuớc mất nhà tan và hoàn cảnh trớ trêu : đất nước lâm nguy – cha con ly biệt. Gắn với vận mệnh đất nước, thù nhà chỉ có thể trả xong khi thù nước không còn, khi người con đã đề nợ nước. Lấy nước làm nhà, lấy cái trung, cái nghĩa đối với nước để đền đáp chữ hiếu sâu nặng với cha, âu cũng là một cách giải quyết “trọn vẹn đôi đường”, nặng tình hợp lý.
Qua Hai chữ nước nhà, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện một tình yêu sâu sắc đối với đất nước, nỗi hận khôn nguôi trước tội ác kẻ thù và tha thiết mong mỏi nền độc lập tự do. Bài thơ vang vọng như tiếng hịch truyền của non sông kêu gọi đồng bào qua thể thơ song thất lục bát và giọng điệu trữ tình tha thiết mãi mãi còn đọng lại trong tâm trí mọi người dân yêu nước xưa và nay.