Hướng dẫn soạn bài Cô Tô

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Trần Mỹ Linh

soạn bài văn bản cô tô giùm mk với (chương trình vnen nha bn )khocroi

Tran Ngoc Hoa
4 tháng 3 2017 lúc 9:56

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả


– Nguyễn Tuân (1910 – 1987).
– Ông là một nhà văn tài hoa và uyên bác.
– Cả đời ông theo chủ nghĩa duy mỹ luôn đi tìm cái đẹp.
– Ông là một người có cá tính không chịu khuất phục nên ông đã tham gia vào cuộc đảo chính chống lại việc giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam, ông bị bắt nhưng đã vượt ngục và vượt biên.
– Trước cách mạng tháng Tám ông theo chủ hướng xê dịch, trụy lạc và duy mỹ với tác phẩm nổi tiếng là tập Vang bóng một thời nói về những thú vui tao nhã nay đã chỉ còn vang bóng.
– Ông là một người có tinh thần dân tộc và đặc biệt thích ăn những món ăn truyền thống quê hương.
– Sau cách mạng tháng Tám ông tìm được sự tài hoa uyên bác, cái đẹp trong chính những người lao động và những công việc bình thường -> đây là sự chuyển biến về mặt tư tưởng: người lái đò sông Đà.


2. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết khi nhà văn có chuyến đi thăm đảo cô Tô năm 1976.
– Xuất xứ: trích từ đoạn cuối của tác phẩm cùng tên.
– Thể loại: kí: thể văn tự sự viết về người thật việc thật, có tính chất thời sự và trung thành với hiện thực.
– Bố cục: 3 phần:
• Phần 1:Từ đầu đến mùa sóng ở đây: quang cảnh Cô Tô sau trận bão.
• Phần 2:tiếp đến là là nhịp cánh: cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô.
• Phần 3: còn lại: cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo Cô Tô.


II. Phân tích
1. Cảnh biển Cô Tô sau trận bão.
– Điểm nhìn từ trên cao nơi nóc đài quan sát.
– Nhìn từ trên cao xuống Cô Tô sau trận bảo trở nên trong trẻo lạ thường.
– Với phương thức miêu tả Nguyễn Tuân đã vẽ lên một bức tranh Cô Tô sau trận bão hết sức hấp dẫn.
• Bầu trời: thì trong sáng.
• Nước biển thì xanh lam đậm đà.
• Cây thì xanh mượt.
• Bãi cát vàng giòn trong nắng.


-> Đây quả là một hình ảnh đẹp của Cô Tô nó gợi lên sự trong trẻo sự thanh khiết của thiên nhiên nơi đây. Trận bão như gột rửa tất cả bụi bẩn để lại một bầu không khí vô cùng thoải mái dễ chịu, quan cảnh như một kì quan tuyệt đẹp.
– Ngoài những tính từ chỉ màu sắc, tác giả còn sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là nghệ thuật tăng tiến “hơn”, “hơn nữa”, “lại” -> nhấn mạnh vào vẻ đẹp Cô Tô.

Loading...


-> Với những gam màu xanh, vàng, sáng trong kết hợp với nhau mang đến một khung cảnh thiên nhiên trong sáng tinh khôi sau trận bão. Nhà văn thể hiện tình cảm yêu quý thêm nơi này của mình. Đồng thời ta cũng phải công nhận Nguyên tuân quả là một phù thủy ngôn ngữ khi đã miêu tả cảnh Cô Tô đẹp và trong sáng đến thế.

2. Cô Tô khi mặt trời mọc. – Tác giả duy trì điểm nhìn: ở những hòn đá đầu sư gần sát mép nước.
– Trước khi mặt trời mọc: chân trời ngấn bể sạch như tấm kính -> tác giả đã dùng từ ngữ “ngấn” và nghệ thuật so sánh cho thấy vẻ đẹp của bình minh trên biển vô cùng trong sáng và tinh khôi.
– Lúc mặt trời mọc: giống như một lòng đỏ của quả trứng hiện lên tròn trĩnh quả trứng hồng hào, chân trời thì màu ngọc trai.
-> Cảnh mặt trời mọc hiện lên tráng lệ, tuyệt đẹp.
– Nghệ thuật miêu tả mặt trời mọc như một mâm lễ tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới.
-> Nguyễn Tuân quả là một bậc thầy trong việc quan sát miêu tả, cảnh bình min hiện lên vô cùng xinh đẹp. 3. Cảnh sinh hoạt và lao động trên Cô Tô. – Địa điểm ở quanh cái giếng nước ngọt ở ria đảo.
– Hoạt động sinh hoạt quanh cái giếng nước ngọt đó:
• Người thì tắm múc, gánh nước.
• Người thì lái thuyền tập trung lấy nước ngọt ra khơi.
• Vợ chồng anh hùng: anh gánh nước, chị địu con.
-> Gợi lên một cảnh sinh hoạt như thường ngày tấp nập đông đúc, khẩn trương. Nhưng sao mà đầm ấm bình yên đến thế. III. Tổng kết

– Đoạn trích đã mang đến cho chúng ta thấy được cảnh đẹp nơi đảo Cô Tô, nơi đây quả thật là một nơi vô cùng xinh đẹp. Từ hình ảnh thiên nhiên cho đến đời sống đều được nhà văn miêu tả hết sức sinh động cụ thể. Và ở góc nhìn nào đảo Cô Tô cũng hiện lên thật tinh khôi và trong sáng

Nguyễn Trần Thành Đạt
4 tháng 3 2017 lúc 17:23

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả


– Nguyễn Tuân (1910 – 1987).
– Ông là một nhà văn tài hoa và uyên bác.
– Cả đời ông theo chủ nghĩa duy mỹ luôn đi tìm cái đẹp.
– Ông là một người có cá tính không chịu khuất phục nên ông đã tham gia vào cuộc đảo chính chống lại việc giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam, ông bị bắt nhưng đã vượt ngục và vượt biên.
– Trước cách mạng tháng Tám ông theo chủ hướng xê dịch, trụy lạc và duy mỹ với tác phẩm nổi tiếng là tập Vang bóng một thời nói về những thú vui tao nhã nay đã chỉ còn vang bóng.
– Ông là một người có tinh thần dân tộc và đặc biệt thích ăn những món ăn truyền thống quê hương.
– Sau cách mạng tháng Tám ông tìm được sự tài hoa uyên bác, cái đẹp trong chính những người lao động và những công việc bình thường -> đây là sự chuyển biến về mặt tư tưởng: người lái đò sông Đà.

2. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết khi nhà văn có chuyến đi thăm đảo cô Tô năm 1976.
– Xuất xứ: trích từ đoạn cuối của tác phẩm cùng tên.
– Thể loại: kí: thể văn tự sự viết về người thật việc thật, có tính chất thời sự và trung thành với hiện thực.
– Bố cục: 3 phần:
• Phần 1:Từ đầu đến mùa sóng ở đây: quang cảnh Cô Tô sau trận bão.
• Phần 2:tiếp đến là là nhịp cánh: cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô.
• Phần 3: còn lại: cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo Cô Tô.


II. Phân tích
1. Cảnh biển Cô Tô sau trận bão.
– Điểm nhìn từ trên cao nơi nóc đài quan sát.
– Nhìn từ trên cao xuống Cô Tô sau trận bảo trở nên trong trẻo lạ thường.
– Với phương thức miêu tả Nguyễn Tuân đã vẽ lên một bức tranh Cô Tô sau trận bão hết sức hấp dẫn.
• Bầu trời: thì trong sáng.
• Nước biển thì xanh lam đậm đà.
• Cây thì xanh mượt.
• Bãi cát vàng giòn trong nắng.


-> Đây quả là một hình ảnh đẹp của Cô Tô nó gợi lên sự trong trẻo sự thanh khiết của thiên nhiên nơi đây. Trận bão như gột rửa tất cả bụi bẩn để lại một bầu không khí vô cùng thoải mái dễ chịu, quan cảnh như một kì quan tuyệt đẹp.
– Ngoài những tính từ chỉ màu sắc, tác giả còn sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là nghệ thuật tăng tiến “hơn”, “hơn nữa”, “lại” -> nhấn mạnh vào vẻ đẹp Cô Tô.

-> Với những gam màu xanh, vàng, sáng trong kết hợp với nhau mang đến một khung cảnh thiên nhiên trong sáng tinh khôi sau trận bão. Nhà văn thể hiện tình cảm yêu quý thêm nơi này của mình. Đồng thời ta cũng phải công nhận Nguyên tuân quả là một phù thủy ngôn ngữ khi đã miêu tả cảnh Cô Tô đẹp và trong sáng đến thế.

2. Cô Tô khi mặt trời mọc. – Tác giả duy trì điểm nhìn: ở những hòn đá đầu sư gần sát mép nước.
– Trước khi mặt trời mọc: chân trời ngấn bể sạch như tấm kính -> tác giả đã dùng từ ngữ “ngấn” và nghệ thuật so sánh cho thấy vẻ đẹp của bình minh trên biển vô cùng trong sáng và tinh khôi.
– Lúc mặt trời mọc: giống như một lòng đỏ của quả trứng hiện lên tròn trĩnh quả trứng hồng hào, chân trời thì màu ngọc trai.
-> Cảnh mặt trời mọc hiện lên tráng lệ, tuyệt đẹp.
– Nghệ thuật miêu tả mặt trời mọc như một mâm lễ tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới.
-> Nguyễn Tuân quả là một bậc thầy trong việc quan sát miêu tả, cảnh bình min hiện lên vô cùng xinh đẹp. 3. Cảnh sinh hoạt và lao động trên Cô Tô. – Địa điểm ở quanh cái giếng nước ngọt ở ria đảo.
– Hoạt động sinh hoạt quanh cái giếng nước ngọt đó:
• Người thì tắm múc, gánh nước.
• Người thì lái thuyền tập trung lấy nước ngọt ra khơi.
• Vợ chồng anh hùng: anh gánh nước, chị địu con.
-> Gợi lên một cảnh sinh hoạt như thường ngày tấp nập đông đúc, khẩn trương. Nhưng sao mà đầm ấm bình yên đến thế. III. Tổng kết

– Đoạn trích đã mang đến cho chúng ta thấy được cảnh đẹp nơi đảo Cô Tô, nơi đây quả thật là một nơi vô cùng xinh đẹp. Từ hình ảnh thiên nhiên cho đến đời sống đều được nhà văn miêu tả hết sức sinh động cụ thể. Và ở góc nhìn nào đảo Cô Tô cũng hiện lên thật tinh khôi và trong sáng.

Trần Hoài Nam
5 tháng 3 2017 lúc 10:27
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Thể loại Kí là "một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể - chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tuỳ bút,..." (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd). Các bài học: Cô Tô (của Nguyễn Tuân), Cây tre Việt Nam (của Thép Mới), Lòng yêu nước (của I.Ê-ren-bua), Lao xao (của Duy Khán) thuộc thể loại kí. 2. Tác giả Nhà văn Nguyễn Tuân (còn có các bút danh khác: Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc) sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán: làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (nay là phường Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội; Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Thời thanh, thiếu niên, Nguyễn Tuân theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung học ở thành phố Nam Định. Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần tại Băng Cốc - Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bắt tại Hà Nội, giam tại Nam Định (1941). Từ những năm 30 của thế kỉ XX, Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết văn và nổi tiếng từ 1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời,... Sau Cách mạng, năm 1946, Nguyễn Tuân cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Khu Năm (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sống và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội. Từ năm 1958, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II). Những tác phẩm đã xuất bản: Ngọn đèn dầu lạc (phóng sự, 1939); Vang bóng một thời (truyện ngắn, 1940); Chiếc lư đồng mắt cua (tùy bút, 1941); Tóc chị Hoài (tuỳ bút, 1943); Tuỳ bút II (tuỳ bút, 1943); Nguyễn (truyện ngắn, 1945); Chùa Đàn (truyện, 1946); Đường vui (tuỳ bút, 1949); Tình chiến dịch (bút kí, 1950); Thắng càn (truyện, 1953); Chú Giao làng Seo (truyện thiếu nhi, 1953); Đi thăm Trung Hoa (bút kí, 1956); Tuỳ bút kháng chiến (tuỳ bút, 1955); Tùy bút kháng chiến và hoà bình (tuỳ bút, 1956); Truyện một cái thuyền đất (truyện thiếu nhi, 1958); Sông Đà (tuỳ bút, 1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ bút, 1972); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982). Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình văn học và dịch giới thiệu văn học. Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996). II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Bài văn có thể chia làm ba đoạn: - Đoạn 1 (Từ đầu đến "theo mùa sóng ở đây"): Cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua. - Đoạn 2 (Từ "Mặt trời lại rọi lên" đến "là là nhịp cánh"):Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc trên biển. - Đoạn 3 (Từ "Khi mặt trời đã lên" đến hết): Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô. 2. Vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng chú ý: - Một ngày trong trẻo, sáng sủa; - Cây thêm xanh mượt; - Nước biển lam biếc đặm đà hơn; - Cát lại vàng giòn hơn; - Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Ở đây, các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng (trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn) trong kết cấu câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật trong sáng, tinh khôi. Nghệ thuật dùng tính từ đặc tả nói trên kết hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung và cảm nhận về vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô. 3. Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)... Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ. 4. Trong đoạn cuối, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh: - Quanh giếng nước ngọt: vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền (sử dụng hình ảnh so sánh); - Chỗ bãi đá, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp (sử dụng lượng từ không xác định); - Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về (sử dụng liên từ và điệp từ); Đó là cảnh sinh hoạt và lao động khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão: "Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành". Hình ảnh so sánh liên tưởng độc đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân - "người đi tìm cái đẹp" toàn bích và hài hoà. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG Cách đọc Khi đọc bài văn, chú ý nhấn giọng thể hiện sắc thái miêu tả qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh có tính gợi cảm; các liên tưởng độc đáo của tác giả khi tái hiện cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo. 2. Viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc (trên biển, trên sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em quan sát được. Gợi ý: Khi miêu tả, cần tập trung vào các chi tiết sau (chú ý vào những nét riêng ở mỗi miền): - Quang cảnh lúc mặt trời chưa lên? (cả không gian trong một mầu mờ mờ trắng đục).


- Mặt trời nhú dần lên như thế nào? (suy nghĩ để lựa chọn được những hình ảnh so sánh độc đáo).

Thảo Phương
5 tháng 3 2017 lúc 12:34

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả


– Nguyễn Tuân (1910 – 1987).
– Ông là một nhà văn tài hoa và uyên bác.
– Cả đời ông theo chủ nghĩa duy mỹ luôn đi tìm cái đẹp.
– Ông là một người có cá tính không chịu khuất phục nên ông đã tham gia vào cuộc đảo chính chống lại việc giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam, ông bị bắt nhưng đã vượt ngục và vượt biên.
– Trước cách mạng tháng Tám ông theo chủ hướng xê dịch, trụy lạc và duy mỹ với tác phẩm nổi tiếng là tập Vang bóng một thời nói về những thú vui tao nhã nay đã chỉ còn vang bóng.
– Ông là một người có tinh thần dân tộc và đặc biệt thích ăn những món ăn truyền thống quê hương.
– Sau cách mạng tháng Tám ông tìm được sự tài hoa uyên bác, cái đẹp trong chính những người lao động và những công việc bình thường -> đây là sự chuyển biến về mặt tư tưởng: người lái đò sông Đà.


2. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết khi nhà văn có chuyến đi thăm đảo cô Tô năm 1976.
– Xuất xứ: trích từ đoạn cuối của tác phẩm cùng tên.
– Thể loại: kí: thể văn tự sự viết về người thật việc thật, có tính chất thời sự và trung thành với hiện thực.
– Bố cục: 3 phần:
• Phần 1:Từ đầu đến mùa sóng ở đây: quang cảnh Cô Tô sau trận bão.
• Phần 2:tiếp đến là là nhịp cánh: cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô.
• Phần 3: còn lại: cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo Cô Tô.


II. Phân tích
1. Cảnh biển Cô Tô sau trận bão.
– Điểm nhìn từ trên cao nơi nóc đài quan sát.
– Nhìn từ trên cao xuống Cô Tô sau trận bảo trở nên trong trẻo lạ thường.
– Với phương thức miêu tả Nguyễn Tuân đã vẽ lên một bức tranh Cô Tô sau trận bão hết sức hấp dẫn.
• Bầu trời: thì trong sáng.
• Nước biển thì xanh lam đậm đà.
• Cây thì xanh mượt.
• Bãi cát vàng giòn trong nắng.


-> Đây quả là một hình ảnh đẹp của Cô Tô nó gợi lên sự trong trẻo sự thanh khiết của thiên nhiên nơi đây. Trận bão như gột rửa tất cả bụi bẩn để lại một bầu không khí vô cùng thoải mái dễ chịu, quan cảnh như một kì quan tuyệt đẹp.
– Ngoài những tính từ chỉ màu sắc, tác giả còn sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là nghệ thuật tăng tiến “hơn”, “hơn nữa”, “lại” -> nhấn mạnh vào vẻ đẹp Cô Tô.

-> Với những gam màu xanh, vàng, sáng trong kết hợp với nhau mang đến một khung cảnh thiên nhiên trong sáng tinh khôi sau trận bão. Nhà văn thể hiện tình cảm yêu quý thêm nơi này của mình. Đồng thời ta cũng phải công nhận Nguyên tuân quả là một phù thủy ngôn ngữ khi đã miêu tả cảnh Cô Tô đẹp và trong sáng đến thế.

2. Cô Tô khi mặt trời mọc. – Tác giả duy trì điểm nhìn: ở những hòn đá đầu sư gần sát mép nước.
– Trước khi mặt trời mọc: chân trời ngấn bể sạch như tấm kính -> tác giả đã dùng từ ngữ “ngấn” và nghệ thuật so sánh cho thấy vẻ đẹp của bình minh trên biển vô cùng trong sáng và tinh khôi.
– Lúc mặt trời mọc: giống như một lòng đỏ của quả trứng hiện lên tròn trĩnh quả trứng hồng hào, chân trời thì màu ngọc trai.
-> Cảnh mặt trời mọc hiện lên tráng lệ, tuyệt đẹp.
– Nghệ thuật miêu tả mặt trời mọc như một mâm lễ tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới.
-> Nguyễn Tuân quả là một bậc thầy trong việc quan sát miêu tả, cảnh bình min hiện lên vô cùng xinh đẹp. 3. Cảnh sinh hoạt và lao động trên Cô Tô. – Địa điểm ở quanh cái giếng nước ngọt ở ria đảo.
– Hoạt động sinh hoạt quanh cái giếng nước ngọt đó:
• Người thì tắm múc, gánh nước.
• Người thì lái thuyền tập trung lấy nước ngọt ra khơi.
• Vợ chồng anh hùng: anh gánh nước, chị địu con.
-> Gợi lên một cảnh sinh hoạt như thường ngày tấp nập đông đúc, khẩn trương. Nhưng sao mà đầm ấm bình yên đến thế. III. Tổng kết

– Đoạn trích đã mang đến cho chúng ta thấy được cảnh đẹp nơi đảo Cô Tô, nơi đây quả thật là một nơi vô cùng xinh đẹp. Từ hình ảnh thiên nhiên cho đến đời sống đều được nhà văn miêu tả hết sức sinh động cụ thể. Và ở góc nhìn nào đảo Cô Tô cũng hiện lên thật tinh khôi và trong sáng.

Trần Thị Ngọc Mai
15 tháng 3 2017 lúc 17:53

I-Giới thiệu văn bản
1.Tác giả
Nguyễn Tuân 1910-1987) quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tùy bút và kí
2.Tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác:
Chuyến đi thăm quan Cô Tô
Thể loại:
Kí(ghi chép lại những sự việc đã thấy, đã trải qua)
Nội dung:
Ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô
II)Đọc-Hiểu Văn Bản
1)Đọc
2) Tìm hiểu văn bản
a) Vẻ đẹp của Cô Tô sau trận bão
-Một ngày trong trẻo sáng sủa
-Cây thêm xanh mượt
-Nước biển lại lam biếc đặm đà hơn
-Cát lại vàng giòn hơn
-Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi
=> Trong sáng, đẹp, tươi mới, nhiểu màu sắc
Vị trí: Trến nóc đồi
b) Cảnh Mặt trời, mọc trên biển
-Chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính
-Mặt trời nhú lên dần dần,rồi lên cho kì hết
-Mặt trời trong trĩnh như lòng đỏ trứng gà
-Như một mâm lễ phẩm
Vị trí: Đi trên đá đầu Sư -> ra đầu mũi đảo -> ngồi xuống rình
c) Cảnh sinh hoạt và lao động
-Gánh, múc nước, tắm
-Gánh nước lên thuyền chuẩn bị ra khơi
-Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con
=> Nhộn nhịp, đông vui, thanh bình
*Nghệ thuật
+Tự sự
+So sánh
+Miêu tả
*Nội dung:
Văn bản ca ngợi lên vẻ đẹp của đảo Cô Tô, và tình yêu quê hương, đất nước đối với tác giả


Chúc bạn học tốt nhé! Bạn Trần Mỹ Linh!!^^

Harry Potter
15 tháng 3 2017 lúc 19:40

Soạn bài : Cô Tô

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài CÔ TÔ (Nguyễn Tuân) I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Thể loại Kí là "một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể - chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tuỳ bút,..." (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd). Các bài học: Cô Tô (của Nguyễn Tuân), Cây tre Việt Nam (của Thép Mới), Lòng yêu nước(của I.Ê-ren-bua), Lao xao (của Duy Khán) thuộc thể loại kí. 2. Tác giả Nhà văn Nguyễn Tuân (còn có các bút danh khác: Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc) sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán: làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (nay là phường Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội; Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Thời thanh, thiếu niên, Nguyễn Tuân theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung học ở thành phố Nam Định. Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần tại Băng Cốc - Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bắt tại Hà Nội, giam tại Nam Định (1941). Từ những năm 30 của thế kỉ XX, Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết văn và nổi tiếng từ 1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời,... Sau Cách mạng, năm 1946, Nguyễn Tuân cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Khu Năm (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sống và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội. Từ năm 1958, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II). Những tác phẩm đã xuất bản: Ngọn đèn dầu lạc (phóng sự, 1939); Vang bóng một thời (truyện ngắn, 1940); Chiếc lư đồng mắt cua (tùy bút, 1941); Tóc chị Hoài (tuỳ bút, 1943); Tuỳ bút II (tuỳ bút, 1943); Nguyễn (truyện ngắn, 1945); Chùa Đàn (truyện, 1946); Đường vui (tuỳ bút, 1949); Tình chiến dịch (bút kí, 1950); Thắng càn (truyện, 1953); Chú Giao làng Seo (truyện thiếu nhi, 1953); Đi thăm Trung Hoa (bút kí, 1956); Tuỳ bút kháng chiến(tuỳ bút, 1955); Tùy bút kháng chiến và hoà bình (tuỳ bút, 1956); Truyện một cái thuyền đất (truyện thiếu nhi, 1958); Sông Đà (tuỳ bút, 1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ bút, 1972); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982). Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình văn học và dịch giới thiệu văn học. Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996). II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Bài văn có thể chia làm ba đoạn: - Đoạn 1 (Từ đầu đến "theo mùa sóng ở đây"): Cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua. - Đoạn 2 (Từ "Mặt trời lại rọi lên" đến "là là nhịp cánh"):Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc trên biển. - Đoạn 3 (Từ "Khi mặt trời đã lên" đến hết): Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô. 2. Vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng chú ý: - Một ngày trong trẻo, sáng sủa; - Cây thêm xanh mượt; - Nước biển lam biếc đặm đà hơn; - Cát lại vàng giòn hơn; - Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Ở đây, các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng (trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn) trong kết cấu câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật trong sáng, tinh khôi. Nghệ thuật dùng tính từ đặc tả nói trên kết hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung và cảm nhận về vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô. 3. Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi; mặt trời nhú lên dần dần, tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn; quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; y như một mâm lễ phẩm)... Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ. 4. Trong đoạn cuối, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh: - Quanh giếng nước ngọt: vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền (sử dụng hình ảnh so sánh); - Chỗ bãi đá, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp (sử dụng lượng từ không xác định); - Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về (sử dụng liên từ và điệp từ); Đó là cảnh sinh hoạt và lao động khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão: "Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành". Hình ảnh so sánh liên tưởng độc đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân - "người đi tìm cái đẹp" toàn bích và hài hoà. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG Cách đọc Khi đọc bài văn, chú ý nhấn giọng thể hiện sắc thái miêu tả qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh có tính gợi cảm; các liên tưởng độc đáo của tác giả khi tái hiện cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo. 2. Viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc (trên biển, trên sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em quan sát được. Gợi ý: Khi miêu tả, cần tập trung vào các chi tiết sau (chú ý vào những nét riêng ở mỗi miền): - Quang cảnh lúc mặt trời chưa lên? (cả không gian trong một mầu mờ mờ trắng đục). - Mặt trời nhú dần lên như thế nào? (suy nghĩ để lựa chọn được những hình ảnh so sánh độc đáo).
ha thi may
15 tháng 3 2017 lúc 20:15

vui to chui


Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Thảo Hương
Xem chi tiết
M%#eli*$sa
Xem chi tiết
ngân hoang
Xem chi tiết
Quỳnh Chi Nguyễn
Xem chi tiết
Người iu JK
Xem chi tiết
Đặng Huy Thuấn
Xem chi tiết
Leonor
Xem chi tiết
Trần Hiền
Xem chi tiết
Trang Pham
Xem chi tiết