Bài làm
O Hen-ri là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn, và sáng tác rất nhiều. Có những năm, số lượng các truyện ngắn của ông sáng tác lên rất cao: 65 truyện năm 1904, 50 truyện năm 1905... Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt. Một số truyện khác thường nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động. Chiếc lá cuối cùng là một truyện giàu tình yêu thương của các nghệ sĩ nghèo. Đặc biệt, nhân vật Bơ-men là nhân vật tiêu biêu cho tình yêu thương cao cả ấy. Tìm hiểu nhân vật Bơ-men, ta càng hiểu sức sống lâu dài của truyện Chiếc lá cuối cùng.
Chiếc lá cuối cùng là thế giới của những họa sĩ nghèo. Đó là không gian chật hẹp của Gri-niz bị chia nhỏ, chật chội. Đã chật chội lại mọc rêu và cô quạnh hoang tàn. Đó là không gian thích hợp cho những người nghèo cư ngụ. Họ gồm có ba họa sĩ: cụ Bơ-men và hai cô họa sĩ trẻ.
Thời gian họ quen nhau không lâu, thế mà ở họ lại sáng lên tình yêu thương ruột thịt hiếm có. Họ thu thập không cao nhưng có chung một lòng yêu nghệ thuật, ước mơ sáng tác một tác phẩm để đời. Mùa đông băng giá là điều kiện để bệnh bệnh viêm phỗi, tên phá hoại này so tài với mọi đối thủ. Hắn đánh vào Giôn-xi, cô họa sĩ nhỏ bé, thiếu máu khiến cô ta lăn ra bất động. Nghèo, không tiền thuốc, không thân nhân ở gần, cô chỉ có một niềm tin đớn đau là cô đơn chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình.
Và cô bệnh nhân ấy yên trí là mình không thể khỏi đã bình thản lạnh lùng làm cái việc nhìn qua cửa sổ, trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiêc lá thường xuân, đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn-xi, chiêc lá là biểu tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời của cô. Cô rơi vào tình trạng bi quan đến mức có những ý nghĩ lạ lùng: "Những chiếc lá trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi. Ông bác sĩ không nói với chị sao?"
May sao, Giôn-xi còn có Xiu luôn cận kề chăm sóc, an ủi cô: "Chị muốn ở bên cạnh em kia. Vả lại chị không muốn em cứ nhìn mãi những chiếc lá thường xuân vớ vẩn đó nữa".
Xiu đi tìm cụ Bơ-men, mời cụ ngồi làm mẫu để vẽ và trình bày tâm trạng của Giôn-xi. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Môi-dơ của Mi-ke-lăng-giơ loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần Xa-tia lòa xòa xuống cái thân hình một tiểu yêu. Bơ-men là người thất bại trong nghệ thuật. Cụ đã già rồi mà tấm vải vẽ vẫn còn trống trơn. Cụ chưa vẽ được gì, chẳng phải cụ không có tài, mà chính là cụ băn khoăn, trăn trở gần suốt cuộc đời, chưa biết vẽ gì cho xứng đáng là một kiệt tác: Trên giá vẽ ở góc buồng là một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ đầu tiên của bức tranh kiệt tác.
Có ước mơ chân chính, suy nghĩ đã nhiều nhưng vẫn còn đó sự trăn trở!Biết vẽ gì? Ngay lúc Giôn-xi tuyệt vọng, gần tuyệt mệnh là lúc cụ uống rượu nặng quá độ. Xiu tìm thấy cụ sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Có lẽ vì cụ thất vọng, trăn trở mãi mà vẫn không đặt bút vẽ được bức tranh kiệt tác. Bên cạnh ước vọng cao quý về nghệ thuật, cụ còn có một tình cảm đặc biệt đối với hai cô họa sĩ như là tình cha con. Thực vậy, cụ là một ông già nhỏ nhắn dữ tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai, và tự coi minh là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng bên.
Với cá tính ấy, tình thương ấy, khi nghe kể về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xy cụ phản ứng thật quyết liệt:
- "Sao trên đời này lại có những người ngớ ngần muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như thế cả".
Tuy nhiên, đó chỉ là một thoáng, sự thực, cụ đang thai nghén một tác phẩm kiệt xuất, cụ sắp làm một việc đầy ý nghĩa hi sinh.
Một ngày mới lại về, Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo chiếc màn để cô nhìn ra ngoài. Tất nhiên, Xiu không muốn nhưng vẫn làm theo. Nhưng ô kìa, sau trận mưa và những cơn gió phũ phàng... vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên tường gạch. Tuy ở gần và cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa, đã nhuộm màu vàng úa, tuy vậy, chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành... Một ngày qua cho đến hoàng hôn chiếc lá đơn độc vẫn bám lấy các cuống của nó ở trên tường và rồi màn đêm cùng với mưa và gió bấc lồng lộn đập mạnh vào cửa sỗ mưa rơi lộp độp...
Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó. Và Giôn-xi chợt hiểu ra có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào và hi vọng một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na-plơ lại trỗi dậy trong cô: cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và mầm sống lại hồl sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: được năm phần mười rồi.
Như vậy, điều gì đã khiến Giôn-xi khỏe trở lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy hiệu lực, có thể một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dẫn về cõi hư vô là màu xanh của chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng trên chiếc tường đối diện với phòng của họ. Chiếc lá đó chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi. Bởi vì đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ-men. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Và đã tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã không ngần ngại đổi nó bằng cuộc sống của chính mình. Nghệ thuật chân chính mang chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin và cuộc sống. Nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ tái tạo.
Do vậy, hình tượng Bơ-men đã tạo được ấn tượng sâu sắc. Bơ-men đã đánh bại được tử thần, trả lại màu xanh cho chiếc lá úa, trả lại màu hồng cho đôi má Giôn-xi, trả lại niềm tin và nghị lực cho tâm hồn yếu đuối.
Ước mơ một đời chưa thực hiện, thai nghén và thực hiện tác phầm bằng cả con tim yêu thương mà phẫn nộ, phẫn nộ với sự mềm yếu của bất kì ai. Nhưng điều quan trọng hơn cả là cụ Bơ-men - con người tốt - có lòng yêu thương đối với Giôn-xi trong điều kiện có thể của mình. Thương yêu chân thành đến độ hi sinh, sáng tác trong giá lạnh để bảo vệ niềm hi vọng cho Giôn-xi. Đó là lòng yêu người yêu nghệ thuật của cụ Bơ-men.
Tác phẩm Chiếc lá cuối cùng, là một bài ca đẹp đẽ tình người và ngời sáng một lối sống và sáng tác của những nghệ sĩ chân chính. Chính những tình thương đó đã mang lại nghị lực đến cho cuộc sống những con người đau khổ tuyệt vọng, cũng chính tình thương đã thổi một sức sống mãnh liệt cho nghệ thuật, làm nên những tác phẩm bất hủ.
Cũng như hai họa sĩ trẻ, Giôn-xi và Xiu-đi, cụ Be-man là một nghệ sĩ nghèo từ tĩnh lẻ tới. Cụ là một người bộc trực thẳng thắn và giàu tình thương người, một con người có nghị lực trong cuộc sống nên dù trong hoàn cảnh nào, cụ cũng luôn luôn lạc quan yêu đời.
Cả cuộc đời sáu mươi năm của cụ, đều là những băn khoản trăn trở chưa có lời giải đáp về một kiệt tác nghệ thuật. Là một nghệ sĩ chân chính, có tài nàng, chắc chắn cụ luôn ấp ủ một bức tranh mơ ước, nhưng cuối cùng cụ vẫn chỉ là một chiếc bóng mờ nhạt của nghệ thuật. Bởi vì cụ nghèo quá không đủ tiền để dồn cho một sáng tác nghệ thuật chân chính. Nguồn thu nhập của cụ là ngồi làm mẫu cho các họa sĩ tập tự, những người “không đủ tiền thuê nổi một người làm mẫu chuyên nghiệp”, để được lĩnh một số tiền nhỏ nhoi, và “bôi bác một bức cho ngành buôn bản hay quảng cáo”, theo lời cụ nói mới chua xót, thất vọng làm sao! Đó là những công việc chán ghét, tẻ nhạt, không phù hợp với hoài bão của cuộc đời cụ.
Tâm trí buồn bực, cảnh sống cùng quẫn, khiến cụ uống rượu squá độ, cay độc và dữ tợn. Nhưng cụ không phải là người xấu, biết thông cảm, sẻ chia buồn vui với những nghệ sĩ trẻ, trong đó có Giôn-xi và Xiu-đi. Có lẽ vì quá thương cảm những cô gái nhỏ nghèo khổ, mà cụ dường như có phần độc đoán khi “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyền gác cửa bảo vệ” cho hai cô bé đáng yêu của cụ. Khi Xiu kể cho cụ Be-man nghe về ý nghĩ kỳ quặc của Giôn-xi: khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cô cũng lìa đời, Giôn-xi yếu đuối mong manh như một chiếc lá, tâm lí đầy tuyệt vọng, thì cụ tức giận, nhạo bám: “Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng lá ư”. Cụ cho những lời nói, hành động của Giôn-xi là ngốc nghếch. Cụ trách Xiu tại sao lại để cho những chuyện vớ vẩn đó chui vào đầu óc cố bé đáng yêu. Sự bực bội quát mắng ấy xuất phát từ một tình thương vô bờ của người cha đối với những đứa con dại dột.
Vì thâu hiểu được tâm trạng của Giôn-xi mà cụ Be-Man đã thốt lên một câu đầy thương cảm “Tội nghiệp cô bé Giôn-xi”. Xiu đã cho cụ là lắm điều lắm lời, nhưng cụ không hề giận. Để giành mạng sống cho Giôn-xi cụ đã quên mình thực hiện một tác phẩm. Và trong khi theo quy luật nghiệt ngã của thiên nhiên, các chiếc lá trên cành rụng hết, vẫn còn lại một chiếc lá và chiếc lá diệu kỳ đã cứu sống cô bé. Giữa bão tuyết dày đặc mưa gió, đêm đông tê tái, chiếc lá trường xuân đơn độc, nhổ bé đang can đảm duy trì nhựa sống dồi dào, thì không lẽ gì một con người lại chịu thua bệnh tật. Giôn-xi tìm lại được niềm vui và bình phục. Đó cũng là lúc cô được biêt chiếc lá trên cành là do Be-man vẽ! Nhưng người họa sĩ già nhân hậu đó đã chết trong đêm đông giông bão khi cụ liều mình trèo lên tường vẽ chiếc lá để đem lại cuộc sống cho cô. Có phải chăng Giôn-xi đã được cụ già Be-men nhường cho hơi thở để được sống và tiếp tục thực hiện ước mơ của mình?
Tình yêu con người, tình yêu nghệ thuật cùng với tài năng của người nghệ sĩ chân chính đã khiến cụ "cứu được cô bé”. Cụ đã hòa vào mực vẽ, vào ngọn bút những giọt máu trong trái tim nhân hậu bao la, những giọt, nước mắt yêu thương của mình khiến cho chiếc lá sống động như thật. Con người già cả ấy không nề đêm tối mịt mùng, lạnh lẽo, hoang vắng, bất chấp gió tuyết cắt da, cắt thịt, để đem tài năng nghệ thuật cứu người. “Cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình”. Cụ vẽ vì sự sống của cô bé, không phải vì danh tiếng cá nhân, chắc cụ không thể ngờ rằng bức vẽ cuối cùng của đời cụ lại được công nhận như một kiệt tác của nghệ thuật. Bức tranh được vẽ với tất cả tấm lòng cao thượng nhân hậu, đã có tác dụng màu nhiệm không chỉ là cuộc sống một con người mà còn đem lại niềm mơ ước sáng tạo cho một nghệ sĩ trẻ. Để đối lấy một tác phẩm đầy tính nhân bản, người nghệ sĩ già không đắn đo trả bằng cả sinh mệnh của mình. Sự hy sinh của cụ làm cho nghệ thuật có ý nghĩa cao quý hơn, gần với nỗi buồn niềm Vui của người bình thường hơn.
Hình ảnh của cụ Be-man có sức chinh phục lòng người, nó hướng con người tới những giá trị đích thực của cuộc sống. “Tất cả mọi thứ rồi sẽ trôi qua nhưng lòng nhân hậu thì còn mãi mãi”. Cụ Be-men là hiện thân của đức hi sinh cao cả, tấm lòng, tình cảm trong sáng, thủy chung của con người. Nhân vật Be-men dường như chỉ thoáng qua, nhưng đây mới chính là nhân vật trung tâm khi ta suy nghĩ về giá trị nhân sinh của chiếc lá cuối cùng. Tác phẩm giản dị nhẹ nhàng như cuộc sống của ông già họa sĩ Be-man, nhưng mang một thông điệp viết trên chiếc lá trường xuân: Con người hãy yêu thương nhau hơn và chỉ có mục đích chân chính phục vụ con người là lẽ sống, lẽ tồn tại duy nhất của nghệ thuật và của bản thân mỗi con người.
Tham khảo ^^
Là nhân vật chính nhưng bác Bơ-men chỉ xuất hiện có một lần ở giữa truyện còn lại là dược nhắc tới qua lời dẫn truyện của tác giả giới thiệu về bác và lời của Xiu-đi nói với Giôn-xi về cái chết và tác phẩm kiệt xuât của bác. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng phẩm chất, tính cách của Bơ-men rất nổi bật, rất sâu sắc.
Trước tiên, người đọc thấy Bơ-men là một nghệ sĩ nghèo, không thành đạt nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác Bơ-men vẫn sống cô độc trong một gian buồng tối om om ở tầng dưới. Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc buồng của bác vẫn là một tấm vải trống trơn chưa có một nét vẽ. Không có tranh để bán, hàng ngày bác kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp. Là họa sĩ nhưng Bơ-men lại sống bằng việc làm người mẫu không chuyên cho những họa sĩ nghèo. Cuộc sống của bác thật khổ và thật bấp bênh tuy vậy bác vẫn sống trong sạch, không phiền hà đến ai, không để cho sự nghèo khổ làm sa sút phẩm chất, làm mềm yếu tinh thần. Chả thế mà bác hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai. Hóa ra bác không chấp nhận sự yếu đuối về tinh thần, về ý chí của bản thản và của những người xung quanh. Phẩm chất đó thật cao đẹp, thật trong sáng. Chính vì có phẩm chất đó, nên tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền. Nhưng ước mơ sáng tạo lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng bác. Bác luôn có ý định rõ một bức tranh kiệt tác và tuy uống rượu nặng quá độ mà vẫn nói về cái tac phẩm kiệt xuất sắp tới của mình, ước mơ khát vọng của bác thật đẹp. Thật chân chính. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác vẫn không thực hiện được ước mơ, khát vọng đó, có lẽ chủ yếu do bác quá nghèo, chứ không phải do bác thiếu tài năng. Người đọc thương bác, yêu quý bác không coi thường bác chính vì lẽ đó.
Song cái đáng quý nhất ở bác Bơ-men là tuy sống trong nghèo khổ, nhưng bác luôn quan tâm đến mọi người, muốn đem lại điều tốt lành cho ngươi khác. Trong cuộc sống, bác không muốn mọi người xung quanh mềm yếu bác chế nhạo họ là mong họ tốt đẹp, cứng rắn lên. Đối với những người nghèo, thực sự yếu đuối, bác luôn quan tâm chăm sóc. Người đọc thật cảm động và quý mến bác khi biết bác tự coi mình có nhiệm vụ gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ nghèo nhỏ bé, thiếu máu ở phòng vẽ tầng trên. Khi Xiu, một trong hai nữ nghệ sĩ do báo tin cho bác biết Giôn-xi, cô nghệ sĩ yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá bị bệnh sưng phổi và ý nghĩ tuyệt vọng kì quặc của cô, bác Bơ men cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng. Đó là những giọt nước mãi xót xa thương cảm Bác đã coi hai cô gái nghèo như con mình. Khi biết Giôn -xi nghĩ rằng mình sẽ chết khi câv thường xuân rụng hết lá, bao hét lên, quát to nhạo báng ý nghĩ ngớ ngẩn của cô. Bác hét, bác quát nhưng, lòng đầy thương cảm vì sau lời quát là lời dịu dàng xót xa: Chà, tội nghiệp cô bé Giôn - xi. Thật cảm động khi nghe bác nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ cô Giôn-xi đang nằm: Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn xi nằm. Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất cả tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế, vẫn là ước mơ tốt đẹp nhưng ước mơ đó gắn liền với một lòng yêu thương sâu sắc. Bác muốn sáng tạo, muốn có kiệt tác để giúp đỡ mọi người, để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Động cơ sáng tạo của bác thật cao cả.
Có lẽ do động cơ sáng tạo cao đẹp đó, nên khi nhìn qua cửa sổ, thấy cây thường xuân rụng lá dần dưới cơn mưa lanh lẽo pha tuyết đang đổ xuống, bác đâu nghĩ đến việc dùng bút vẽ đêr cứu Giôn-xi... và chiếc lá cuối cùng vẫn không rụng, vẫn đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường, mặc cho mưa gió vùi dập qua mấy đêm kinh khủng. Chiếc lá cuối cùng không rụng đó đã đem lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi, đã cứu sống Giôn-xi. Nhưng chiếc lá cuối cùng đó đã giết bác Bơ-men, bởi vì chiếc lá rất giống những chiếc lá khác nhưng chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi tới là do bác Bơ-men vẽ trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống. Do dầm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ-men đã nhiễm bệnh sưng phổi và đã qua đời sau đó hai ngày. Bác đã chết sau khi sáng tạo tác phẩm duy nhất là chiếc lá cuối cùng để cứu sống một cô gái bị bệnh hiểm nghèo. Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác không phải không cảm thấy giá buốt, không phải không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để cứu sống cô đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá cuối cùng. Đó là một kiệt tác thực sự vì nó chứa đựng tất cả tâm hồn, tài năng của một nghệ sĩ chân chính, vì nó được tạo nên bằng cả cuộc đời của một con người và vì nó đem lại cuộc sống cho những người nghèo khổ và lương thiện.
Bác Bơ-men đã chết, nhưng tác phẩm kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô gái nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện tất cả phẩm chất cao đẹp của bác: nghèo nhưng vô cùng nhân hậu, thất bại nhưng vẫn ước mơ, sẵn sàng xả thân vì người khác.