Văn bản ngữ văn 10

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Vy Nguyễn

nêu cảm nhận của em về tư tưởng nhân nghĩa trong bài Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi

Thời Sênh
19 tháng 2 2019 lúc 21:47

Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu

Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng

(Tố Hữu)

Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa” trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo ông viết:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Vậy nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là phải giữ “yên dân’’. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là từ những kẻ sách nhiễu dân.

Từ quan hệ ứng xử mang tính cách cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành tư tưởng xã hội. một nhiệm vụ cụ thể, nói như Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ dân như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống những người dân vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải bị trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp cải lương để châm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của lực lượng quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”.

“Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo”

Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không lấy nhân thay bạo, mà ở đây sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là “hung tàn” là “cường bạo”. Nướng dân đen trèn ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Tội ác ấy phải bị trừng phạt “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: Tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương nhân dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh Ngô, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu một quan điểm về quyền dân tộc và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học. Trong những lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Trải qua bao biến động lịch sử, Nguyễn Trãi nói lại cái chữ đế đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử. có phong tục và có văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu sẽ phải chịu thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:

“Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Thế mà nay bọn giặc Minh:

“Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư? (Bài 8 Quân Trung từ mệnh tập). Cái thế đứng của một dân tộc có và trọng nhân nghĩa ấy sẽ bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...

Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống manh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:

Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc

Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông...

Miêu tả cuộc tổng tấn công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.

Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn bó với nhân nghĩa mà chủ nghĩa yêu nước.

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc. Chúng ta không vì sự man rợ của giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người ta là hoa của đất” do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “Bốn phương biển cả thanh bình,”... Đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”. Chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều dó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được “nghĩ sức” trong thanh bình:

“Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới”

Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ quân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất cảm thông với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại muôn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).

Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quôc và “Bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.

Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích kì diệu, bao chiến công lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mĩ Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những tên giặc lái. Bọn chúng đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta tàn phá đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho nhân dân trên mọi miền đất nước, vậy mà khi bắt sống chúng, ta vẫn đối xử nhân đạo cho và “khách sạn Hintơn”, và sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trao trả lại cho phía Mĩ. Phải chăng đó là được bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.

Đem đại nghĩa thẳng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo”



Thảo Phương
20 tháng 2 2019 lúc 15:41
I. Mở bài - Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và vị trí tác phẩm đại cáo bình Ngô trong nền văn học. - Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa: Là tư tưởng quan trọng chủ đạo trong bài. Tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc. II. Thân bài 1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa - Tư tưởng nhân nghĩa xuất phát từ quan niệm Nho giáo: là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí. - Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Chắt lọc những hạt nhân cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là: + Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc. + Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược. →Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại 2. Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô. a. Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc. Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục: - Nền văn hiến lâu đời - Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể - Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc - Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa. →Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc →Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa” b. Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước. Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta: - Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,.. - Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất - Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,... - Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,.. - Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,... →Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc →Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng c. Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. - Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội - Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn: + Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù + Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc. →Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều cùng chung một mục đích chiến đấu d. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc. - Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa + Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh. + Câp thuyền, phát ngựa cho họ trở về. - Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức →Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt →Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Quốc. III. Kết bài - Khái quát, đánh giá lại vấn đề - Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại nay: vẫn còn được ngợi ca và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên ứng với mỗi hoàn cảnh cụ thể nó lại mang những ý nghĩa giá trị khác.
Linh Kiều
13 tháng 3 2019 lúc 21:24


Nguyễn Trãi là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam trên các tư cách anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà sử học và địa lý học. Xem xét cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi, có thể khẳng định ông đã trở thành hiện thân cho sự chuyển giao thời đại từ Phật giáo Lý - Trần sang Nho giáo, người đặt nền móng tư tưởng văn hóa nghệ thuật cho thời đại Nho giáo thịnh trị, đặc biệt trong buổi đầu còn rực sáng ánh hào quang của tinh thần phục hưng dân tộc và ý nghĩa nhân văn nhân đạo cao cả.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là ngôi sao rực rỡ trên văn đàm thế kỷ XV, những tác phẩm thơ văn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm như ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập hay những áng văn chính luận như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc, cho nước nhà có thể xem là những đóng góp xuất sắc, đa dạng cả về mặt nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật.
Ngày xưa Khổng Tử đã từng quan niệm “Thi dĩ ngôn chỉ”- Thi ca không chỉ thể hiện tình cảm con người, mà còn thể hiện tư tưởng con người. Nguyễn Trãi không chỉ là một thi sỹ mà còn là một nhà triết gia, một nhà tư tưởng. Thi ca của Nguyễn Trãi đã phản ánh rõ tư tưởng của tác giả. Đó là tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo hòa hợp nhau mật thiết trong con người ông. Trong đó Nho giáo là xu hướng nhân đạo rõ nhất trong tác phẩm Nguyễn Trãi. Tư tưởng ấy thể hiện rõ ở lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn về nền văn hiến của dân tộc. Trên cơ sở đó Nguyễn Trãi đã dùng nhân nghĩa làm nguyên lý, làm lập trường chống lại quân xâm lược nhà Minh. Trong phạm vi bài viết nhỏ này chúng tôi đề cập đến một khía cạnh, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong thơ Nguyễn Trãi và đi vào một tác phẩm cụ thể - Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phấm “Bình
Ngô đại cáo”.
Trong cuốn “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc”, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết “Triết lý nhân nghĩa Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Ta có thể khẳng định tinh thần suốt một đời nhân nghĩa, suốt một đời phấn đấu không ngừng của ức Trai không một bài văn bài thơ nào thể hiện mức độ kết tinh như Bình Ngô đại cáo. Một tác phẩm lớn mang tầm tư tưởng lớn, một luận văn tổng kết lịch sử tư tưởng yêu nước Đại Việt, dưới hình thức một áng văn, một “Thiên cổ hùng văn”. Bình Ngô đại cáo chính là sự chung đúc những tinh hoa của tư tưởng yêu nước Việt Nam, đến Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Trãi đã được nâng lên một tầm cao chưa từng thấy trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước khi nhà yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh gặp chủ nghĩa yêu nước Mac - Lênin. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo được thể hiện ở lòng tự hào về ý thức dân tộc, về nền văn hiến dân tộc. Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, căm thù giặc, diệt bạo tàn mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
I. Nhân nghĩa là niềm tự hào dân tộc về độc lập chủ quyền, nền văn hiến dân tộc:
Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, chúng ta có thể thấy Nguyễn Trãi đã nêu cao giá trị của truyền thống dựng nước và giữ nước. Tư tưởng yêu nước được thể hiện trước hết ở lý luận về độc lập dân tộc, về chủ quyền quốc gia. Lý luận đó được người Việt Nam nhận thức bổ sung và nâng cao, làm phong phú thêm bằng thực tiễn dựng nước và giữ nước. Ông cha ta luôn khẳng định Việt Nam là một dân tộc có núi sông, bờ cỏi, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời. Đó là điều cốt lõi để khẳng định ý thức tự tôn của một dân tộc, chống lại âm mưu thôn tính, đồng hóa của Trung Quốc, khẳng định sức mạnh quật cường của dân tộc. Trong bài thơ “Thần” Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt đã khảng khái tuyên bố:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư.

Nếu như trong Nam Quốc Sơn Hà, ý thức dân tộc được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ, chủ quyền, mới chỉ dừng lại ở phân chia núi sông bờ cõi, thì đến với Bình Ngô đại cáoNguyễn Trãi đã khẳng định thêm ba yếu tố phong tục, văn hiến, lịch sử.

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Định, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)

Qua đây, ta có thể thấy Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thấy được vai trò văn hóa trong việc cấu thành dân tộc; cũng là người đầu tiên khẳng định sự tồn tại độc lập của nền văn hóa Đại Việt, dứt khoát tách khỏi quỹ đạo của văn hóa phương Bắc. Trong quan niệm về độc lập chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến (Văn: văn chương sách vở…; Hiến: hiền tài hào kiệt) là yếu tố cơ bản nhất để xác định, khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Đây chính là điều mà kẻ thù luôn luôn phủ định, không thừa nhận và tìm mọi cách xóa bỏ. Sự khẳng định dứt khoát của Nguyễn Trãi về văn hóa, về con người Việt Nam trong Bình Ngô đại cáo là sự trả lời cho tư tưởng phân biệt giữa “Hoa hạ” và “Tứ di” vốn là tư tưởng phản động của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đặc biệt triều Minh - Triều đại xâm lược tàn bạo đất nước ta, mưu toan hủy diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc của ta. Nguyên lý về nhân nghĩa phải đứng trên lập trường của chính nghĩa. Khẳng định chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đưa ra những minh chứng đầy sức thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý.

Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã …

là những chứng cứ khẳng định cho sức mạnh của dân tộc ta.
Theo quan niệm tư tưởng của Nguyễn Trãi “Nhân nghĩa gắn liền với văn hóa, văn hiến, văn minh”. Chính nó tạo nên thế đứng độc lập ngang hàng với bao nhiêu triều đại phương Bắc trong quá khứ, nền văn hiến không những được đánh dấu ở “Núi sông bờ cõi” mà còn ở “Phong tục Bắc Nam”. Phong tục của một dân tộc nói lên lối sống cao đẹp của dân tộc ấy. Sức mạnh của một dân tộc được khẳng định, thể hiện ở sự bền vững của những phong tục tốt đẹp nhất. Người Đại Việt từ ngàn đời nay luôn mang trong mình đạo lý tốt đẹp, luôn có tình yêu thương, sẻ chia đùm bọc, đoàn kết gắn bó một lòng, có tình tương thân tương ái “Chị ngã em nâng”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Dù kẻ thù có ra sức đồng hóa, hủy diệt, phủ nhận thì người Việt Nam vẫn khẳng định được thế đứng của mình, khẳng được vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc.
II. Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, là dựa vào dân mà cứu nước:
Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo cùng với việc khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa của dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu thương con người, là mưu cầu cho hạnh phúc muôn dân.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Chổ dựa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi ở đây là dùng lời lẽ của thánh hiền, dùng luận đề của nho giáo “Hàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa là “Trên thuận theo lòng hiếu sinh của trời, dưới cứu thoát nhân dân từ trong nước sôi lửa bỏng”. Như vậy nhân nghĩa chính là thương dân, là mong muốn cho dân được hưởng cuộc sông thái bình. Cho nên “Đánh kẻ có tội, cứu vớt nhân dân là thánh nhân làm việc đại nghĩa”. Theo quan niệm đạo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử thì việc triều đại nhà Minh dấy binh xâm lược nước ta, hòng thôn tính huỷ diệt Đại Việt chính là hành động bạo ngược, trái ngược với đạo lý, với ý trời lòng dân. Với một triều đại tôn sùng Nho giáo, hay nói cách khác là luôn mở miêng rêu rao đạo lý thì việc đi ngược lại thánh hiền là hành động sai trái, là tội ác tày trời. Bằng tấm lòng yêu nước sục sôi, thương muôn dân phải sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, Nguyễn Trãi đã vạch trần lên án, tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa, vạch trần luận điệu bịp bợm “Phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
(Bình Ngô đại cáo)

Hành động của kẻ thù ở đây là hành động diệt chủng. Còn có ai mà chúng không hà hiếp dã man tàn khốc? Còn có ai mà chúng không bóc lột đến tận xương tủy. Tình yêu thương nhân dân hòa quyện với lòng căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Trãi đã dùng những lời văn thống thiết, những hình ảnh cụ thể trong đời sống thực của nhân dân để nói lên nỗi đau khổ của nhân dân, cũng như tội ác tàn bạo của kẻ thù. Đọc Bình Ngô đại cáo, ta thấy hiện lên hình ảnh những người dân vô tội không còn con đường sống. “Người bị ép xuống biển”, “Kẻ bị đẩy rừng sâu” và trước mắt họ là cá mập thuồng luồng, là hùm beo sói dữ. Tội ác của kẻ thù vừa tàn bạo, vừa rộng khắp.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Ngay cả những kẻ “Góa bụa khốn cùng” cho đến giống “côn trùng cây cỏ” củng khó thoát khỏi manh vuốt kẻ thù. Những kẻ tự xưng là có nền văn hiến, những kẻ tự cho mình thông hiểu đạo lý thánh hiền thực chất chỉ là loài quỷ dữ uống máu người không tanh.

Thằng há miệng đứa nhe răng
Máu mỡ no nê chưa chán

Tội ác của giặc Minh chất cao hơn núi, chúng tham lam vô độ, tàn bạo vô cùng, chúng đã dùng “Muôn nghìn kế”, “Dối trời lừa dân” tội ác ấy “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Nguyễn Trãi đã chỉ thẳng vào mặt kẻ thù, kết thúc bản cáo trạng bằng lời kết tội đanh thép.

Độc ác thay! Trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay! Nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được.

Đây chính là vấn đề lớn đặt ra cho cả dân tộc, cho lịch sử. Bởi tội ác của kẻ thù là vô hạn, cái bạo ngược của chúng là vô cùng, tội ác ấy trời không dung, đất không tha. Theo quan điểm của thánh nhân, người quân tử phải làm nên đại nghĩa, phải cứu muôn dân thoát khỏi cảnh lầm than. Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân nghĩa xé tan bức màn dối trá “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà” nhà Minh lợi dụng chiêu bài “nhân nghĩa”, “Điếu dân phạt tội” để làm việc bạo tàn, để xâm lấn, bóc lột, giết chóc. Nhân nghĩa mà như thế ư? Đó chỉ là sự dối trá, là chiêu bài của bọn “hung tàn”. Hành động của quân “cuồng Minh” là hành động diệt chủng, luận điệu “phù Trần diệt Hồ” chỉ là sự giả dối và tất cả những hành động bạo ngược của kẻ thù đã tự phơi bày bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác “bại nhận nghĩa nát cả đất trời”. Và đứng trên lập trường chính nghĩa, Nguyễn Trãi khẳng định cuộc kháng chiến chống quân Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Người dân Đại Việt vốn yêu chuộng hòa bình, coi trọng tình hòa hảo các nước lân bang nhưng kẻ thù đã ngang nhiên xâm lấn, đã có những hành động bạo ngược khôn cùng. Vì thế chúng ta phải đứng lên.

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
(Bình Ngô đại cáo)

Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của kẻ thù, cũng trên lập trường ấy, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu nước thương dân. Nhân nghĩa là “An dân”, Muôn dân yên thì phải tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc cho muôn dân, bởi vậy cuộc chiến tranh chống giặc Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa tiêu diệt bạo tàn.
Trong xã hội phương Đông, nhân nghĩa là phạm trù cơ bản của đạo đức học. Theo Khổng Tử “Nhân” là quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn; “Nghĩa” trách nhiệm đạo đức trong năm mối quan hệ đó. Trong đó quan hệ vua tôi là quan hệ trung tâm và đòi hỏi mọi người phải trung thành tuyệt đối với đạo lý ấy. Dân tộc ta không thừa nhận một cách tuyệt đối những điều ấy, và theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa là thương dân, yêu dân, giúp dân trừ bạo. Tình bằng hữu, mối quan hệ lân bang giữa nước lớn và nước nhỏ là điều đáng coi trọng, nhưng khi xâm hại đến hạnh phúc của muôn dân thì kẻ quân tử cũng trở thành “cường bạo”. Kể cả vị hoàng đế nhà Minh, một kẻ được xem là con trời nhưng khi cầm quân xâm lược Đại Việt, gây ra những hành động bạo tàn thì cũng trở thành kẻ tiểu nhân và cũng bị Nguyễn Trãi chỉ thẳng tay vào mặt “Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng”. Qua đây ta có thể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo chính là yêu nước, thương dân, là đạo lý làm người. Nguyễn Trãi đã chiến đấu, đã khẳng định sự tồn tại của Đại Việt, đã mạnh mẽ khẳng định sự ngang hàng của Đại Việt với các triều đại Trung Quốc. Không còn quan hệ Thiên tử - Chư hầu mà là sự bình đẳng. Và một khi thiên tử làm điều bạo ngược thì Đại Việt sẵn sàng đứng lên để bảo vệ độc lập dân tộc. Cuộc chiến tranh chống quân giặc Minh là cuộc chiến tranh vì đại nghĩa, cuộc chiến tranh vượt qua cương thường của Nho giáo truyền thống.
Điều đáng chú ý trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi ở Bình Ngô đại cáo là phương sách cứu nước. Nói về nguyên nhân thất bại của nhà Hồ, Nguyễn Trãi viết

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.

Qua đây ta có thể thấy được nhà Hồ mất vương quyền chính là vì không được lòng dân, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, để nhân dân oán hận. Từ bài học ấy và cũng xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc, thấy được sức mạnh của dân là sức mạnh dời non lấp biển, ý dân là ý trời. Nguyễn Trãi đã chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân và cứu nước cũng là cứu dân thoát khỏi ách cường bạo. Ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn đã phất lên trên cơ sở đường lối ấy. “yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người” (Phạm Văn Đồng “Nguyễn Trãi-Người anh hùng dân tộc”).
Vì nhân nghĩa mà Lê lợi, Nguyễn Trãi đã “đau lòng nhức óc”, “Nếm mật nằm gai”, “Căm giặc nước thề không cùng sống”, dựng ngọn cờ thu phục nhân tâm.
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sỹ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
(Bình Ngô đại cáo)
Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò của nhân dân, đặc biệt của những người gọi bằng “manh lệ”. Đây là một sự phát triển vượt bậc so với tư tưởng yêu nước của thời đại Lý- Trần. Trong Hịch tướng sỹ Trần Quốc Tuấn không phải không biết biết vai trò của nhân dân, nhưng chỉ mới nghĩ đến “Khoan dân” làm kế sâu rễ bền gốc, chưa thấy được sức mạnh vai trò của nhân dân và quyền lợi được hưởng cũng chỉ dành cho Vương hầu, Tướng sỹ. Trong khi đó ta có thể thấy rõ ở tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược, xét cho đến cùng yếu tố quyết định làm nên chiến thắng chính là nhân dân. Đến với Nguyễn Trãi, ta thấy ức Trai không chỉ nghĩ đến dân mà còn thấy được sức mạnh của nhân dân. Vì nước, vì dân ông luôn băn khoăn thao thức. Trong trái tim cuồn cuộn yêu thương, Nguyễn Trãi luôn dành cho dân những tình cảm thiết tha nhất. Những lời văn thống thiết như máu cuộn trong tim, nỗi xót thương nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực, những lời kết tội đanh thép của Nguyễn Trãi trước kẻ thù-những kẻ gây bao điều bạo ngược cho dân là minh chứng cho tình yêu thương nồng nàn sâu sắc của ông. Cứu nước là cứu dân, muốn phất cao ngọn cờ nhân nghĩa là phải dựa vào dân mà cứu nước là tư tưởng mà Nguyễn Trãi đã thể hiện trong Bình Ngô đại cáo. Trong suốt bốn ngàn năm lịch sử cha ông ta đã biết phát huy sức mạnh của nhân dân, xem đó là cơ sở làm nên chiến thắng, là một việc rất cơ bản trong tư tưởng yêu nước, là đường lối chính trị đứng đắn hợp mọi thời, mọi đời. Phát huy sức mạnh của nhân dân, đoàn kết một lòng từ trên xuống dưới chính là nhân tố tạo nên chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Tư tưởng yêu nước trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo không chỉ là ở chổ phát động cuộc chiến tranh hợp thời, hợp quy luật, biết phát huy sức mạnh như vũ bão của quần chúng nhân dân mà còn là ở chổ biết dừng cuộc chiến tranh đúng lúc kịp thời. Như Nguyễn Trãi đã từng khẳng định “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” lý do “Trừ bạo” là để “An dân”; ”Điếu phạt” là để muôn dân được sống trong hòa bình. Thì nay cuộc chiến tranh dừng lại cũng chính là để “An dân”. Vì thương dân mà “Đánh kẻ có tội” khi mục đích đã đạt ta phải để “dân nghỉ sức”.

Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
(Bình Ngô đại cáo)

Họ đã tham sống sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn dân là hơn nhân dân nghỉ sức.
(Bình Ngô đại cáo)

Với bản chất “Chí nhân đại nghĩa” ta đã kết thúc cuộc chiến tranh với tấm lòng nhân ái bao la. Người Việt có câu: “Đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”, tính mạng của con người rất đáng quý, dù họ là người dân Việt Nam hay Trung Quốc, vì thế “Thần Vũ chẳng giết hại”, “mở đường hiếu sinh” đã thể hiện lượng khoan hồng cao cả. Rõ ràng sợi dây nhân nghĩa là mục đích khởi sự và cũng là cái đích cuối cùng. Tư tưởng nhân nghĩa cũng chính là tư tưởng hòa bình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản chất “Chí nhân thay cường bạo”. Tư tưởng ấy đã khẳng định vẻ đẹp nhân nghĩa của người Việt Nam từ xưa đến nay, vẻ đẹp của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh. Mục đích đánh lại kẻ thù ‘’ Diệt hung tàn” của chúng ta cũng chỉ vì yêu dân, yêu nước mà thôi.
Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là yêu nước, cứu nước, cứu dân, chống giặc ngoại xâm, tiêu diệt bạo tàn vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân. Hiểu chữ nhân nghĩa như thế thì Khổng Tử, Mạnh Tử và toàn bộ Nho giáo chưa bao giờ hiểu rõ. Nguyễn Trãi - một con người “đầu đội trời, chân đạp đất” - một nhà tư tưởng của thời đại đánh giặc “cuồng Minh”, đã vượt qua được những hạn chế của Nho giáo truyền thống, vượt xa trên hành trình tư tưởng yêu nước của mình. Tư tưởng ấy, trí tuệ ấy đã kết tinh lại để Bình ngô đại cáo trở thành “Thiên cổ hùng văn”.
Bình ngô đại cáo là tấm gương soi của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Là tiếng vọng của ngàn xưa và mãi mãi về sau. Bình ngô đại cáo khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam, những con người đã sống, đang sống và sẽ sống như thế. Từ ngàn xưa, hôm nay và mai sau, chúng ta luôn tự hào về lối sống, bản sắc của dân tộc. Tình đoàn kết yêu thương, đùm bọc, gắn bó sẻ chia giữa con người với con người mãi mãi vững bền. Tư tưởng yêu nước của cha ông ta, sự kế thừa và phát huy tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Phát huy và kế thừa tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, suốt bốn ngàn năm văn hiến, người Việt Nam đã khẳng định được sức mạnh của mình. Dù thời đại đổi thay, phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam vẫn không hề thay đổi. Người Việt Nam vẫn một lòng yêu nước thương dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm lẽ sống, phấn đấu cho một xã hội phồn thịnh, công bằng, hạnh phúc, văn minh.


Các câu hỏi tương tự
Tae Tae
Xem chi tiết
Nguyễn Thư
Xem chi tiết
Đặng Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Phạm Tiến Dũng
Xem chi tiết
Big City Boy
Xem chi tiết
Trung Nguyễn
Xem chi tiết
Phạm Đức Thắng
Xem chi tiết
Quỳnh Anh
Xem chi tiết
ann ann
Xem chi tiết