Lập dàn ý chi tiết và viết bài văn cho các đề bài sau:
1. Ðóng vai chị Dậu kể lại đoạn truyện chị Dậu đánh nhau với cai lệ và nguời nhà lý truởng.
2. Trong vai người chứng kiến, hãy kể lại đọan truyện chị Dậu đánh nhau với cai lệ.
3. Trong vai người đạp xích lô, em hãy kể lại cuộc gặp gỡ của mẹ con bé Hồng trong đoạn trích "Trong lòng mẹ"(Nguyên Hồng)
4. Trong vai một người bạn của bé Hồng, em hãy kể lại cuộc gặp gỡ của mẹ và Hồng
5.Trong vai người chứng kiến kể lại cảnh Lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo
6. Từ truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" (O Hen-ri), trong vai nhân vật Xiu kể lại đoạn truyện từ "Khi trời vừa hửng sáng" đến hết
7. Trong vai người chứng kiến, em hãy tưởng tượng mình được nhìn thấy những giây phút cụ Bơ-men vẽ chiếc lá cuối cùng vào đêm mưa tuyết đó.
(ko chép mạng)
1.
Tôi đau đớn lắm khi phải đem bán đứa con gái đầu lòng với đàn chó nhưng vẫn chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng mình. Chồng tôi vì thiếu tiền sưu mà bị giam cầm, đánh đập đến tàn nhẫn mãi đến hôm qua, người ta mới cõng chồng tôi về, nhìn thấy anh ấy như một xác chết. May rằng còn có bà con đến cứu anh ấy mới trở về. Bà con hàng xóm thương tình cho bát gạo, nấu cháo để anh ấy húp cho khỏe.
Nấu cháo xong, tôi bưng lên cho chồng, vừa mới ngồi dậy, trên tay còn bưng bát cháo, chưa kịp ăn thì mấy tên ác ôn đó là cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào trên tay cầm roi song, tay thước, dây thừng. Ông cai lệ gõ đầu roi xuống đất, thét lên và bắt chồng tôi phải nộp tiền sưu. Lo sợ bị đánh nên chồng tôi vội để bát cháo xuống lăn đùng ra mà không nói được câu nói. Ông người nhà lí trưởng còn miệng cay độc.
Trước hoàn cảnh nghặt ngèo đó tôi chỉ còn biết cúi đầu van xin người nhà ông lí trưởng, xin được khất qua lần sau. Ông cai lệ đã quát mắng, chửi rủa một cách thậm tệ. Chồng tôi đang đau ốm không van xin chắc chồng tôi không qua khỏi.
Đùng đùng, ông cai lệ giật cái thừng trong tay người nhà lí trưởng và chạy vào để trói chồng tôi. Tôi vội đặt con xuống đất, chạy vào xin tha cho chồng. “Tha này! Tha này!”, vừa nói ông ta vừa bịch luôn vào ngực tôi mấy bịch rồi lại sấn đến để trói chồng tôi. Lúc đó tức quá tôi vội quát:
Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Ông ta lại tát vào mặt tôi. Lúc này tôi không còn là lúc cúi đầu van xin nữa, sức mạnh từ đâu đã trào lên khiến tôi nghiến hai hàm răng: Mày trói ngày chồng bà đi, bà cho mày xem!
Tôi túm lấy cổ, ấn dúi ra cửa, hắn ngả chỏng quèo, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng tôi. Người nhà lí trưởng chạy đến giơ gậy đánh tôi. Tôi biết được ý định đó nắm ngay được gậy của hắn, túm tóc hắn, lẳng cho một cái, hắn ngã nhào.
Tôi vẫn không hiểu được tại sao và từ đâu tôi lại có sức mạnh đánh ngã cả hai tên ác ôn đó. Có thể là từ bản năng của người vợ khi thấy chồng bị áp bức đến thậm tệ đã trỗi dậy.
2. Tôi là hàng xóm ngay cạnh nhà chị Dậu. Gia đình tôi cũng chả khá gì cả, chồng tôi mất, các con thì đi làm xa hết cả. Chỉ có một thân một mình tự nuôi thân . Tôi ở ngay cạnh nhà chị nên chứng kiến bao nhiêu chuyện đau đớn của gia đình. Đêm hôm đó thì tôi thấy tiếng kêu lớn của chị Dậu. Ra ngoài thì thấy bọn cai lệ đang vứt anh Dậu trả lại cho chị. Thương tình tôi cho chị vay bát gạo
Nói về gia đình nhà chị Dậu thì thật tội nghiệp. Nhà chị đông con, lại thêm nghèo đói vì năm đó mất mùa. Chị đã phải bán hết cả gánh khoai, đàn cho con mà chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng. Đến cái Tí, đứa con lớn của chị cũng đem bán cho ông bà Nghị Quế kia. Thỉnh thoảng, tôi cũng chạy sang hỏi thăm gia đình chị. Cho chị những thứ lặt vặt. Đêm hôm đó, tôi nghe thấy tiếng thét của bọn cai lệ: “ Con mụ Dậu kia! Ra nhận chồng này” . Tôi mới bàng hoàng chạy ra thì thấy anh Dậu như một cái xác chết bị quẳng về. Anh bị chúng đánh đập cả tối qua. Thương tình tôi cho nhà chị vay bát gạo để nấu cháo cho chồng ăn. Dù sao nhà tôi vẫn đỡ hơn nhà chị, vì tôi chỉ sống một mình. Gia đình chị Dậu lại thân thiện với hàng xóm.
Tôi chạy sang hỏi thăm gia đình chị và anh Dậu : “ Bác trai đã khá hơn rồi chứ?” Chị Dậu vẫn dáng mệt mỏi trả lời: “ Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường”.Tôi liền giục chị.
– “ Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Bảo bác ấy ăn bánh rồi trốn đi đâu thì trốn.
Sau khi nghe chị Dậu nói, chờ anh Dậu ăn xong. Tôi trở về mang dáng vẻ boăn khoăn. Không biết gia đình chị có vượt qua được không? Anh Dậu có bị bắt nữa không đây?
Tôi chứng kiến cảnh bọn cai lệ vào nhà chị Dậu đòi sưu. Vì nhà tôi đối diện với nhà chị Dậu nên tôi vừa đi về thì đã nghe thấy tiếng của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đi đòi sưu thuế. Ôi ! thôi xong, anh Dậu chắc còn chưa kịp ăn miếng cháo.Chúng mang roi song, tay thước và dây thừng để đi bắt anh Dậu. Chúng quyết đòi sưu cho bằng được. Mang theo thái độ hung hăng, nào thét, nào mắng. Mặc cho chị Dậu vẫn van nài chúng, van xin chúng cho khuất đến hôm sau nhưng chúng lại càng hung hắn mà quyết trói anh Dậu bằng được Tôi nghe thấy mà như xót hết cả ruột gan, tức thay cho chị Dậu nhẫn nhịn chúng. Khi chúng khăng khăng vào trói anh Dậu, chị Dậu đã nhảy vào giằng co với chúng quyết liệt lắm. Tôi thấy anh Dậu ở ngoài thì cố gắng can ngăn nhưng không được. Chúng chỉ ở ngoài và thét lên bắt anh chị vào tù
Gia đình chị Dậu thật tội nghiệp. Tôi không thể giúp gia đình chị gì nhiều chỉ có thể an ủi chị cố gắng vì chồng con. Mong là gia đình chị sẽ thoát khỏi cơn khó khăn này. Đối với người nông dân nghèo như chúng tôi, chỉ mong có đủ cái ăn là hạnh phúc rồi.
3.Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều, khi tất cả tình yêu với mẹ đã được nhà văn giãi bày trên trang giấy.
Một đoạn trích ngắn, một tình yêu vô bờ bến nhà văn dành cho mẹ đã khiến cho bao trái tim trẻ thơ thổn thức. Điều quan trọng hơn, nhà văn đã đem đến cho ta những giờ phút suy ngẫm về vai trò Người Mẹ. Có lẽ vì những ngày thơ ấu in đậm trong hoài niệm đã làm nên một hồn văn nhân ái Nguyên Hồng sau này chăng?
5.
Tôi và ông giáo là hai người hàng xóm thân thiết. Mỗi khi chiều xuống, tôi lại sang bên nhà ông giáo cùng uống nước chè. Hôm nay cũng vậy, thật tình cờ, tôi đã chứng kiến trọn vẹn câu chuyện bán chó của lão Hạc. Tôi không khỏi xúc động trước tấm lòng nhân hậu của lão – người đã gần đất xa trời.
Ông giáo làm nghề dạy học đã lâu nhưng cuộc sống cũng chẳng khá giả gì. Ổng cùng vợ con sống trong một căn nhà đơn sơ nhỏ bé. Trong nhà chỉ giản dị một cái chõng tre, một cái giường cũ, mấy bộ quần áo, một tủ sách nhỏ và mấy bộ bàn ghế cũ để dạy học cho lũ trẻ trong làng. Ông giáo là người nhiều chữ nghĩa lại rất nhân hậu nên thường dạy học trò không lấy tiền. Vì vậy, cuộc sống của ông cũng chả khá hơn những người nông dân chúng tôi là mấy. Như thường lệ, thấy tôi sang, ông rót nước mời tôi. Đặt bát chè tươi xuống bàn, ông giáo lại nói về chuyện lão Hạc. Lão Hạc là hàng xóm liền kề với hai gia đình chúng tôi. Lão thân và kính trọng ông giáo lắm. Có chuyện gì lão cũng kể cho ông giáo nghe, xin ý kiến của ông. Tuy cũng là nông dân nhưng lão khổ hơn chúng tôi gấp bội phần. Nhà lão nghèo lắm, vợ lão mất sớm, được thằng con trai khỏe mạnh thì lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền vì không có tiền cưới vợ. Cả gia đình chỉ còn mỗi lão Hạc thui thủi sống một mình cùng con chó vàng trong túp lều mục nát. Ngày nào lão cũng phải đi làm thuê kiếm miếng ăn khiến tôi không tránh khỏi thương cảm. Lão vừa ốm hơn hai tháng trời, có bao nhiêu tiền dành dụm đều tiêu hết cả. Nhiều lúc, tôi cũng muốn giúp lão nhưng nhà nghèo, cố gắng lắm, thi thoảng tôi cũng chỉ giúp lão được củ khoai, bát gạo,.
Buổi chiều hôm ấy, tôi và ông giáo đang ngồi nói chuyện thì lão Hạc sang. Dạo này chắc không có gì ăn nên lão gầy quá. Hôm nay trông lão có vẻ buồn. Tôi phân vân không biết có chuyện gì xảy ra thì lão báo tin đã bán con Vàng rồi. Cả tôi lẫn ông giáo đều sửng sốt vì ai cũng biết lão quý con Vàng như thế nào. Nó chẳng những là kỉ vật con trai lão để lại mà còn là người bạn tâm giao của lão những khi vui buồn, đời nào lão nỡ bán nó đi. Tất cả lặng thinh, bùi ngùi, chợt, ông giáo quay sang hỏi: “Thế nó cho bắt à?”. Tôi cũng thêm vào: “Con Vàng dữ lắm, bắt nó cũng chẳng dễ gì”. Lão cố làm ra bộ vui vẻ, nhưng hình như xót con Vàng quá, lão cười mà như mếu, rồi lão bắt đầu khóc. Giọng run run, vừa nói vừa khóc, lão bảo con Vàng thấy lão gọi về ăn thì sung sướng lắm, đang ăn thì thằng Xiên, thằng Mục lao ra, tóm gọn bốn chân nó. Nói xong, lão càng khóc nhiều hơn, lão mếu máo: “Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Thì ra, tôi già ngần này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Nghe lão kể mà tôi thấy đau lòng quá. Nghĩ lại thì cũng phải, lão còn chẳng nuôi nổi lão, thêm con chó nữa thì lấy tiền đâu ra mà ăn. Biết lão Hạc buồn, tôi và ông giáo đều cố gắng an ủi lão. Ông giáo nhẹ nhàng: “Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là hoá kiếp cho nó đấy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác”. Tôi cũng hùa theo ông giáo: “Đúng đấy cụ ạ, nó cũng chỉ là con chó, nó chẳng biết gì đâu, với lại từ trước cụ cũng đối xử với nó tốt lắm rồi còn gì”. Lão có vẻ đồng ý với chúng tôi và hơi nguôi đi một chút. Một lúc sau lão nói, giọng cay đắng: “Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Ông giáo nhìn lão, bảo: “Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?”. Lão buồn rầu: “Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?”. Câu nói của lão Hạc ngẫm ra thì đúng thật. Nông dân chúng tôi làm gì có ai sướng cơ chứ. Ngồi thêm một lúc, tôi xin phép ra về. Tôi cứ nghĩ mãi về câu chuyện của lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, ít học nhưng rất nhân hậu. Tôi cũng ngạc nhiên khi có người nghèo khổ đến cùng đường, phải bán đi con chó mà lại day dứt, ân hận như vậy. Quả là một phẩm chất đáng quý. Tôi thương lão lắm, chỉ muốn làm gì đó cho lão bớt khổ. Nhưng biết làm gì, cùng là nông dân, tôi chẳng biết làm gì ngoài cách an ủi lão và mong muốn sao cho lão bớt khổ.
Câu chuyện bán chó của lão Hạc khiến tôi cảm động rơi nước mắt và in sâu vào tâm trí tôi. Một con người lương thiện, nhân hậu như vậy mà vẫn phải chịu khổ đau. Ước sao cho số phận của lão Hạc sẽ bớt đi những cay đắng và xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn để không ai phải khổ như lão Hạc.