Được viết theo lối thơ hiện đại với ngôn từ phóng khoáng không hề gò bó, tứ thơ kiểu mới giàu cảm xúc, dễ thể hiện tình cảm. Ở khổ đầu bài thơ, tâm hồn của tác giả hòa quyện với hình ảnh hạt gạo đậm sâu sắc từ những cảnh vật thân thuộc quê nhà. Hạt gạo ấy ngon vì được thấm đượm “vị phù sa”- Sông Kinh Thầy quê tác giả chảy qua đồng ruộng phong cảnh yên bình ấy còn có thêm “Hương sen thơm” , trong đó còn có lời ru ngọt ngào của người mẹ hiền hòa hòa quyện. Độ ngon của hạt gạo còn phụ thuộc và được thử thách bởi thời tiết thiên nhiên cũng là để quyết định mỗi một vụ mùa thành công hay không sau bao cực nhọc của người nông dân. Được tác giả tả chi tiết tháng bảy từ bao đời thiên nhiên luôn khắc nghiệt với những cơn bão lớn gây thiệt hại to lớn đến hoa màu rồi đến tháng ba với những cơn mưa kéo dài, rồi mùa hè đến mang theo cái oi bức đặc biệt là tháng sáu nóng nực ảnh hưởng đến mọi cảnh vật xung quanh, đặc biệt cây lúa với vụ mùa người nông dân vẫn phải vất vả ra đồng cấy. Sự sâu lắng của bài thơ còn đọng lại trong tim mỗi người, biết trân quý hơn về ý nghĩa của sự lao động sớm nắng chiều mưa của người dân chân lấm tay bùn để tạo ra hạt vàng đáng quý- Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá.
Hạt gạo là kết quả của sự kết tinh những gì tinh túy nhất hình thành nên, là vị phù sa của sông Kinh Thầy, là hương sen thơm trong hồ nước đầy, thậm chí còn có cả tình cảm của những người mẹ trong đó, là lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay.Muốn làm ra được hạt gạo thì đâu phải dễ dàng gì, người nông dân phải vất vã rất nhiều. Trong hạt gạo có bao nhiêu mồ hôi nước nước mắt, vị phù sa của con sông thuần khiết, hương sen và cả những câu hát vui khi chăm sóc cánh đồng, khoảnh ruộng của mẹ. Người nông dân muốn cho cây lúa tốt tươi thì còn phải cực nhọc khi những cơn bão lớn đi qua, mưa to, gió lốc lớn, những trưa hè oi ả lại phải ra đồng cày cấy, nước ruộng nóng cứ như là được ai đun sôi. Đến các con vật như cá, cua cũng không chịu nổi: "cá chết-cua ngoi lên bờ". Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên như vậy mà người nông dân, cụ thể ở đây là người mẹ của tác giả vẫn không quản khó khăn, chịu nắng nóng khắc nghiệt để xuống đồng gieo mạ. Bài thơ đã cho mọi người hiểu cảnh khổ cực của nông dân thời bao cấp, để mọi người luôn nhớ ơn người nông dân đã làm ra những hạt gạo trắng trong chắt lọc tinh hoa của đất trời nghìn năm muôn thuỡ.
Và trong giai đoạn đất nước ta còn nghèo nàn và sống chủ yếu vẫn là nghề nông nghiệp truyền thống tác phẩm tuyệt vời “Hạt gạo làng ta” dưới cái nhìn đầy quen thuộc dễ hiểu chân thực về tình yêu tác giả dành cho “Sản vật” quê nhà.
Được viết theo lối thơ hiện đại với ngôn từ phóng khoáng không hề gò bó, tứ thơ kiểu mới giàu cảm xúc, dễ thể hiện tình cảm. Ở khổ đầu bài thơ, tâm hồn của tác giả hòa quyện với hình ảnh hạt gạo đậm sâu sắc từ những cảnh vật thân thuộc quê nhà. Hạt gạo ấy ngon vì được thấm đượm “vị phù sa”- Sông Kinh Thầy quê tác giả chảy qua đồng ruộng phong cảnh yên bình ấy còn có thêm “Hương sen thơm” , trong đó còn có lời ru ngọt ngào của người mẹ hiền hòa hòa quyện đậm vị
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Tham khảo:
Năm gần hết, tết sắp đến, nhiều người đang xốn sang chạy ngược chạy xuôi để mua cho được tấm vé tàu, vé xe hầu kịp về quê sau một năm xa cách. Họ háo hức về quê đón một cái tết, một mùa xuân, một năm mới với bao ước mơ tươi đẹp cùng gia đình, bên người thân. Các cháu thiếu nhi còn nôn nóng mong tết biết bao! Mong đến nỗi các cháu thường đếm ngược thời gian, hay hỏi người lớn còn bao nhiêu nữa sẽ đến tết.
Ông bà ta rất quí trọng hạt gạo, coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” trời cho để nuôi sống con người. Chính vì thế, mà những hạt cơm, con cháu sơ lý làm vương vãi xuống đát, ông bà ta phải nhặt lên, nếu không thì “phí của trời”. Mà quả thật, trong dân giang biết bao câu truyện về người coi thường : Hạt ngọc” của trời đã nhận lãnh hậu quả thuê thảm, đau thương, từ đang giàu có biến thành tán gia bại sản. Hạt gạo tuy được trời cho, nhưng phải qua công sức của con người một nắng hai sương mới có. Trong bài thơ: “ Hạt gạo làng ta” của Trần đăng khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó.
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông kinh thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùiđắng cay
Tham khảo:
Muốn làm ra được hạt gạo thì đâu phải dễ dàng gì, người nông dân phải vất vã rất nhiều. Trong hạt gạo có bao nhiêu mồ hôi nước nước mắt, vị phù sa của con sông thuần khiết, hương sen và cả những câu hát vui khi chăm sóc cánh đồng, khoảnh ruộng của mẹ. Người nông dân muốn cho cây lúa tốt tươi thì còn phải cực nhọc khi những cơn bão lớn đi qua, mưa to, gió lốc lớn, những trưa hè oi ả lại phải ra đồng cày cấy, nước ruộng nóng cứ như là được ai đun sôi. Đến các con vật như cá, cua cũng không chịu nổi: "cá chết-cua ngoi lên bờ". Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên như vậy mà người nông dân, cụ thể ở đây là người mẹ của tác giả vẫn không quản khó khăn, chịu nắng nóng khắc nghiệt để xuống đồng gieo mạ. Bài thơ đã cho mọi người hiểu cảnh khổ cực của nông dân thời bao cấp, để mọi người luôn nhớ ơn người nông dân đã làm ra những hạt gạo trắng trong chắt lọc tinh hoa của đất trời nghìn năm muôn thuỡ.
"Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".
Hạt gạo là kết quả của sự kết tinh những gì tinh túy nhất hình thành nên, là vị phù sa của sông Kinh Thầy, là hương sen thơm trong hồ nước đầy, thậm chí còn có cả tình cảm của những người mẹ trong đó, là lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay. Những ngày này, miền Bắc đang phải chịu thời tiết rất khắc nghiệt: trời nắng nóng và thời tiết rất khô. Ngồi làm việc trong phòng điều hòa, tôi bỗng nhớ tới những người lao động đang vất vả mưu sinh ngoài kia đặc biệt là các bác nông dân, những ngày này đang phải vất vả thu hoạch những hạt gạo. Với một đất nước nông nghiệp như Việt Nam, hình ảnh hạt gạo là một hình ảnh rất thân thuộc trong đời sống hàng ngày. Tôi bỗng nhớ tới một bài hát từ lâu đã đi sâu vào lòng người “Hạt gạo làng ta” của nhạc sĩ Trần Việt Bình – phổ thơ Trần Đăng Khoa.
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay...”
Hạt gạo là kết quả của sự kết tinh những gì tinh túy nhất hình thành nên, là vị phù sa của sông Kinh Thầy, là hương sen thơm trong hồ nước đầy, thậm chí còn có cả tình cảm của những người mẹ trong đó, là lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay.
. “Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất".
Nghe tới đoạn này của bài hát, tôi bỗng nhớ tới cách đây khoảng hơn 10 năm, khi mà tốc độ đô thị hóa nông thôn chưa phát triển như bây giờ, khu nhà tôi ở có rất nhiều đồng ruộng. Vào thời điểm đó, tôi mới chỉ là một cô bé hơn 10 tuổi, tôi cùng các bạn hay đi ra chơi ở những cánh đồng. Và rất may mắn, tôi có cơ hội được chứng kiến quang cảnh khẩn trương lao động sản xuất của những người nông dân Việt Nam, rất chân thật như những lời thơ của chú Trần Đăng Khoa “tát nước vào ruộng, bắt sâu cho lúa, gánh phân đổ vào ruộng…”.
Giờ cánh đồng ngày nào đã không còn nữa mà thay vào đó là trường học, là các dự án, khu đô thị nhà ở cao tầng, bể bơi… Người nông dân làng tôi bây giờ đã bỏ ruộng, tôi cảm thấy có một sự tiếc nuối, tôi mong rằng tốc độ đô thị hóa sẽ không quá phát triển để nông thôn Việt Nam, người dân nông thôn vẫn giữ được những nét riêng, bản sắc riêng vốn có của nó trong đó có cánh đồng và những hạt gạo.
Ở đoạn kết của bài hát, tác giả có nhắc tới:
“Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta...”
Chỉ đơn giản hai câu “Gửi ra tiền tuyến và gửi về phương xa”, hai câu thơ tưởng chừng như rất đơn giản ấy nhưng nó chứa đựng nỗi đau và sự mất mát, sự hi sinh xương máu của biết bao thế hệ đi trước trên con đường gửi hạt gạo ra tiền tuyến và gửi về phương xa ấy.
Bài hát “Hạt gạo làng ta” là sự ca ngợi vẻ đẹp của hạt gạo, ca ngợi vẻ đẹp của những người nông dân, được sáng tác từ năm 1971, trải qua hơn 40 năm bài hát vẫn giữ được vị trí quan trọng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Điều đáng buồn thay, hình ảnh của người nông dân trong suốt hơn 40 năm qua gần như không có nhiều thay đổi, vẫn là một sự vất vả, hi sinh, một nắng hai sương để sản xuất ra những hạt gạo. Tôi nghĩ rằng nền nông nghiệp Việt Nam chưa đạt được sự phát triển như Nhật Bản, Mỹ…vì chúng ta đang ngày càng thiếu đi những người nông dân có tri thức tốt. Thế hệ trẻ như chúng tôi, nếu như hỏi 100 bạn, tôi tin chắc có đến 99 bạn không chọn theo nghề nông nghiệp vì từ nhỏ chúng tôi đã được giáo huấn rằng “cố gắng học thật giỏi để thoát cảnh làm nghề nông”.
Và chúng tôi đã cố gắng học để trở thành những bác sỹ, kỹ sư, giáo viên, người làm kinh doanh, kế toán… Giờ đây tôi nuối tiếc vì đã không chọn nghề nông, không được góp phần nhỏ bé của mình để phát triển nền nông nghiệp Việt Nam để góp phần làm cho hạt gạo tốt hơn cả về chất lượng và sản lượng để có thể tăng giá trị xuất khẩu và cạnh tranh được với hạt gạo của nhiều nước khác.