* Vùng biển, đảo và thềm lục địa
- Vùng biển, đảo nước ta thuộc vùng biển nhiệt đới với lượng nhiệt – ẩm dồi dào, có sự phân mùa rõ rệt của khí hậu và chế độ hài văn.
- Vùng thềm lục địa có hình thái, độ sâu, chiều rộng khác nhau từ bắc vào nam và có mối quan hệ chặt chẽ với phần lãnh thổ đất liền. Ở vùng ven biển hình thành các dạng địa hình bồi tụ, mài mòn hoặc hỗn hợp mài mòn – bồi tụ.
- Sinh vật vùng biển, đào phong phú, đa dạng, tiêu biểu cho sinh vật vùng biển nhiệt đới. Các rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm có biển vừa đặc trưng cho hệ sinh thái vùng biển, vừa có tính đa dạng sinh học cao.
* Vùng đồng bằng ven biển
- Các vùng đồng bằng được hình thành do quả trình bồi tụ phù sa sông và biển, kéo dài không liên tục từ Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) đến Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang).
- Chế độ nhiệt – ẩm đặc trưng cho vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Đây là nơi có địa hình thấp, khả bằng phẳng, thấp dần theo hướng tây bắc – đông nam và theo hướng tây – đông, là nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển và vùng đồi núi liền kề.
- Sinh vật tự nhiên nguyên sinh còn lại không nhiều do tác động chủ yếu của con người. Các hệ sinh thải khả phong phú, nhất là hệ sinh thải ở các vùng cửa sông, đầm phá và đất ngập nước khác.
* Vùng đồi núi
- Vùng đồi núi chiếm phần lớn diện tích nước ta, phân bố ở phía tây và tây bắc, chủ yếu là đồi núi thấp và bị chia cắt mạnh.
- Do tác động của gió mùa và hướng của các dãy núi làm cho thiên nhiên đồi núi có sự phân hoá: vùng núi Đông Bắc thiên nhiên thể hiện tính chất cận nhiệt đới gió mùa, trong khi ở vùng núi Tây Bắc, thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa phổ biến ở vùng núi thấp phía nam và ở vùng núi cao có cảnh quan thiên nhiên giống vùng ôn đới.
- Giữa Đông Trường Sơn và Tây Nguyên chế độ mưa có sự đối lập: khi Đông Trường Sơn có mưa vào thu – đông thì Tây Nguyên khô hạn, đầu mùa hạ Tây Nguyên có mưa lớn thì nhiều nơi ở Đông Trường Sơn có thời tiết nóng, ít mưa.